“Yên tâm.” – Tháp Khắc Tát đầy tự tin nói, “Kế hoạch của ta không hề có vấn đề.”
Bộ Sâm liếc nhìn Tháp Khắc Tát, thấy vẻ đắc ý lộ rõ trên mặt y. Không hiểu sao trong lòng Bộ Sâm bỗng dâng lên một cảm giác bất an, như có điều gì không ổn.
“Sao?” – Tháp Khắc Tát nhận ra nét ngờ vực trong ánh mắt của Bộ Sâm, bèn cười khẩy: “Đại sư không tin ư? Ta thực sự đã có kế hoạch. Ngươi biết đấy, người Hán luôn thích tấn công vào bản trận của địch… chính là khu vực này.”
Nói rồi, Tháp Khắc Tát giơ tay chỉ về khu vực phía trước, như thể đã nắm chắc cục diện trong tay.
“Quân Hán rất mạnh.” – Tháp Khắc Tát ngẩng cao đầu, phô bày cả những sợi lông mũi lưa thưa, giọng điệu đầy kiêu căng. “Chính vì mạnh nên chúng rất kiêu ngạo! Đúng vậy, kiêu ngạo. Và chính chúng ta sẽ lợi dụng điểm này! Mỗi lần ra quân, người Hán luôn tấn công vào bản trận của đối thủ, làm tan rã đội hình, rồi từ đó tung ra những đòn đánh tiếp nối, không cho đối phương cơ hội phản công…”
Tháp Khắc Tát nhếch môi cười đắc ý: “Giờ ta đã biết bí mật của chúng, nên ta đã giăng bẫy tại đây! Bẫy! Ha ha ha! Đại sư, ngươi cứ chờ xem ta đá bay quân Hán thế nào!”
Bộ Sâm khẽ gật đầu, không nói lời nào. Hai tay y chắp lại, miệng niệm một câu Phật hiệu, như đang cầu nguyện cho kế hoạch của Tháp Khắc Tát lần này sẽ thành công.
Đúng vậy, Tháp Khắc Tát đã phát hiện ra “bí mật” của người Hán.
Những tướng lĩnh Hán như Cao Thuận và Trương Liêu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng y. Mặc dù quân số không nhiều, nhưng cả hai người này đều sử dụng chiến thuật tương đồng: đánh thẳng vào bản trận, nơi chủ tướng đóng quân, để gây hoảng loạn và đoạt lấy thắng lợi nhanh chóng.
Chiến pháp đột kích bản trận, chém tướng đoạt cờ, giành chiến thắng ngay từ cú đánh đầu tiên, là một chiến thuật phổ biến ở phương Bắc. Không chỉ Lã Bố thường dùng, mà ngay cả ba huynh đệ Lưu Bị hay những danh tướng dưới trướng Viên Thiệu như Nhan Lương, Văn Sú cũng tinh thông chiến thuật này.
Sau khi thất bại trong việc công phá quân trại của quân Hán, Tháp Khắc Tát đã nảy ra một ý. Y lợi dụng những hố đất đào dở từ lần công kích trước để mở rộng thành bẫy, nhằm ngăn chặn đợt đột kích tiếp theo của quân Hán.
Ban đầu, Tháp Khắc Tát chủ yếu đề phòng quân Hán trong trại sẽ bất ngờ xông ra trong đêm. Nhưng không ngờ, quân trong trại vẫn án binh bất động, còn Trương Liêu lại dẫn quân đến.
“Tốt lắm!” – Tháp Khắc Tát vỗ tay hai cái, tự cổ vũ mình. Y hít một hơi thật sâu, rồi thở ra mạnh mẽ, giọng đầy phấn khích và ngạo nghễ:
“Lại đây nào, các con cưng của ta! Hãy để ta đá bay các ngươi khỏi chiến trường!”
Y chăm chú quan sát từng cử động của Trương Liêu và kỵ binh Hán. Tuy nhiên, trong khi Tháp Khắc Tát mải mê với kế hoạch của mình, y không nhận ra một vấn đề nghiêm trọng đã âm thầm bộc phát trong chính liên quân Tây Vực.
Quân số quá đông, và Tháp Khắc Tát không thể kiểm soát hết.
Tây Vực là nơi tập hợp nhiều tộc người khác nhau. Mỗi tộc không chỉ có văn hóa và ngôn ngữ riêng, mà còn có ý chí và tham vọng riêng.
Sức mạnh của liên quân nằm ở chữ “liên”, nhưng chính chữ “liên” này cũng là nhược điểm chí mạng. Nếu không có sự đồng lòng, một liên quân dù đông đến đâu cũng chẳng khác gì cát rời, chỉ chực tan vỡ dưới áp lực.
Trong khi Tháp Khắc Tát tự tin với kế hoạch của mình, nhiều tộc trưởng đã bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau. Một số còn tỏ ra không muốn dốc toàn lực vì lo sợ tổn thất quá lớn cho tộc mình.
Và như một đám cỏ khô gặp gió mạnh, sự chia rẽ trong lòng liên quân Tây Vực bắt đầu bùng lên – ngay khi kỵ binh của Trương Liêu phóng tới như cơn bão sắp ập xuống.
Đây chính là vấn đề chí mạng. Việc điều động quân lực của Tháp Khắc Tát gần như trở nên vô dụng trong tình thế khẩn cấp, nhưng y lại không nhận ra – hoặc cố tình phớt lờ. Đây là nhược điểm lớn nhất của liên quân Tây Vực, một vấn đề đã lộ ra từ lúc bắt đầu, nhưng y lại bỏ qua.
Thực ra, Tháp Khắc Tát chỉ là một thiên phu trưởng, người từng chỉ huy cao nhất cũng chỉ từ ba đến bốn ngàn quân. Kinh nghiệm điều binh khiển tướng quy mô lớn hơn vạn người gần như là con số không. Nay, gánh vác trọng trách thống lĩnh liên quân Tây Vực, y chẳng khác gì Võ Đại Lang gánh phên, phên còn thấy nhưng người thì chẳng thấy đâu!
Trong các bộ phim, ta thường thấy quân đội mười vạn, thậm chí trăm vạn, nhưng trong lịch sử thật sự, một đạo quân đạt mười vạn đã là hiếm thấy. Những trận chiến với quy mô trăm vạn gần như không tưởng, bởi chúng không chỉ cần người mà còn cần đủ lương thực, tài vật để duy trì.
Ngay cả những vương triều hùng mạnh như Tây Vực và Quý Sương, muốn tổ chức một cuộc chiến lên đến trăm vạn quân cũng là điều không thể. Chiến tranh là chuyện con người thực thụ, không phải thứ muốn có là có ngay.
Ngay cả khi dân số có đạt đến hàng triệu, của cải và lương thực để nuôi một đại quân như vậy vẫn là một vấn đề to lớn. Thực tế, trong lịch sử Trung Nguyên, chỉ có khoảng ba trận chiến quy mô triệu người.
Xếp đầu bảng là cuộc viễn chinh Cao Câu Ly của Tùy Dạng Đế.
Tùy Dạng Đế phái 24 đạo quân với tổng quân số hơn triệu người để chinh phạt Cao Câu Ly, trong khi quân Cao Câu Ly chỉ có khoảng 13 vạn. Trước thế chênh lệch quá lớn, Tùy Dạng Đế tự tin rằng mình sẽ chiến thắng dễ dàng, như rồng bay trên trời làm sao thua được.
Thế nhưng, do thời tiết khắc nghiệt ở Liêu Đông, cùng với tính kiêu ngạo của Tùy Dạng Đế và nhiều yếu tố phức tạp khác, quân Tùy thiệt hại hơn 30 vạn, số còn lại bỏ giáp tháo chạy về nước.
Thứ hai là trận Trường Bình – nền tảng vững chắc cho sự thống nhất thiên hạ của nhà Tần.
Trong trận này, quân Triệu có 45 vạn, còn quân Tần – dù là bên tấn công – vẫn có nhiều hơn một chút, khoảng 60 vạn, đủ để tính là một trận chiến vượt mốc triệu người. Kết quả, quân Triệu bị tiêu diệt hoàn toàn, còn quân Tần tổn thất gần một nửa, nhưng danh tướng Bạch Khởi từ đó được tôn vinh là “chiến thần” vô địch.
Nhà Tần thời cực thịnh có khả năng huy động tối đa khoảng 80 vạn quân. Tướng Mông Điềm dẫn 30 vạn quân xây Trường Thành chống Hung Nô, thêm 50 vạn đánh chiếm Lĩnh Nam, thế mà vẫn không đủ sức đối phó Lưu Bang và Hạng Vũ sau này.
Thứ ba là trận Phì Thủy, nơi hoàng đế Phù Kiên của Tiền Tần tập hợp 87 vạn quân, quyết tâm nam chinh tiêu diệt Đông Tấn để thống nhất Trung Nguyên.
Nhưng trước sông Phì, liên quân Tiền Tần – vốn bao gồm nhiều dân tộc khác nhau – tan rã trước khi giao chiến, bị 8 vạn quân Tấn phản công dữ dội, khiến Phù Kiên phải chạy trốn nhục nhã về phương Bắc, làm Tiền Tần nhanh chóng sụp đổ.
Còn như trận Xích Bích nổi tiếng của Tào Tháo, tiếc rằng không đủ để lọt vào top mười.
Dù Tào Tháo tuyên bố có 80 vạn quân, nhưng thực tế chỉ có khoảng 15 vạn, nhiều lắm là 20 vạn. Còn trận Di Lăng, Lưu Bị mang theo khoảng 10 vạn quân, dù miệng thì nói 70 vạn, nhưng cuối cùng vẫn bị 5 vạn quân của Lục Tốn đánh cho đại bại.
Liên quân Tây Vực hiện tại, trước sau cộng lại được 3-4 vạn, nhưng lại tự xưng là 30 vạn.
So với binh lực của Trương Liêu hiện tại, quân số của Tây Vực liên quân quả thực đông đảo hơn. Người đông tất có cái lợi của người đông: chết vài trăm, thậm chí vài nghìn cũng chẳng phải chuyện gì to tát, Tháp Khắc Tát chỉ khẽ nhướn mày, lòng không chút gợn sóng.
Giống như lần trước khi tấn công doanh trại thất bại, Tháp Khắc Tát chẳng mảy may quan tâm đã có bao nhiêu người bỏ mạng, thậm chí còn cảm thấy bớt người đi thì càng đỡ gánh nặng.
Dù sao cũng chỉ là đám già yếu, chết thì cũng chẳng đáng tiếc.
Người đông còn có thêm một điểm tiện lợi: ví dụ như việc đào hố, Tháp Khắc Tát chẳng cần lo sẽ hao tổn sức lực của quân thân tín. Hễ có việc, hắn chỉ cần vung tay bảo: “Đám kia, làm đi!” – việc nào cũng có người làm. Đến nỗi, khi công việc đã hoàn thành, chẳng ai còn nhớ ai đã làm, và làm thế nào.
Quản lý binh mã là một nghệ thuật vi diệu, không phải ai cũng làm được. Từ những trận chiến trăm vạn trong lịch sử Trung Nguyên đã cho thấy: binh lực nhiều không hẳn là điều tốt.
Trong trận Trường Bình, chiến thắng của nước Tần không đến từ việc quân số đông hơn, mà nhờ vào hệ thống chỉ huy chặt chẽ. Cấu trúc chỉ huy kiểu kim tự tháp được thiết lập vững chắc, giúp mệnh lệnh từ thống soái dễ dàng truyền xuống đến cấp thấp nhất.
Ngược lại, những trận đại chiến khác, nếu thống lĩnh yếu kém hoặc binh sĩ không được huấn luyện kỹ càng, tất cả sẽ trở thành một thảm họa. Như trận Phì Thủy, chỉ cần một tiếng hô thất trận, quân Tiền Tần đông đảo đã tự động tan rã như bầy kiến, không cần giao tranh ác liệt mà đã bỏ chạy tán loạn.
Tháp Khắc Tát tưởng rằng mình đã kiểm soát tốt liên quân Tây Vực, nhưng thực tế, y chỉ quen biết các tướng lĩnh đứng đầu các tiểu quốc Tây Vực, còn quân đội bên dưới thì y hoàn toàn không nắm được.
Do đó, mọi mệnh lệnh của y đều phải dựa vào truyền lệnh binh chạy tới chạy lui.
Trong những trận đánh thông thường, nhược điểm này không quá lộ rõ, bởi Tháp Khắc Tát và các tướng Tây Vực có đủ thời gian để hội họp mỗi đêm, bàn bạc rồi phân công nhiệm vụ cho ngày hôm sau. Mọi việc cứ thế tuần tự mà làm, chẳng có gì cấp bách.
Nhưng khi tấn công doanh trại, vấn đề đã dần xuất hiện. Mỗi khi gặp trở ngại giữa trận, Tháp Khắc Tát không thể nhanh chóng ứng biến, chỉ có thể đứng nhìn, chờ đợi đến hôm sau mới tính cách khác. Chính vì thế, dù quân số áp đảo, liên quân Tây Vực vẫn không thể tạo ra sức ép liên tục lên quân doanh địch, sức mạnh không sao phát huy trọn vẹn.
Còn bây giờ thì sao?
Khi Trương Liêu đột kích bất ngờ, nhược điểm này lập tức phơi bày ra toàn bộ.
Tháp Khắc Tát vội sai truyền lệnh binh, các tướng Tây Vực cũng lập tức phái người đi truyền lệnh. Nhưng truyền lệnh binh không thể như trong trò chơi chiến thuật, nháy mắt đã đến nơi. Trong biển người đông đúc, họ phải lần mò từng bước để tìm người cần báo lệnh. Thảm hại hơn, những người họ đang tìm lại không đứng yên tại chỗ, khiến việc tìm kiếm càng thêm khó khăn.
Trong khi đó, Trương Liêu đã không để cho liên quân Tây Vực có cơ hội bàn bạc, mà xuất quân tấn công ngay lập tức!
Những tiếng hô hào vang dội trong hàng ngũ Tây Vực, từng tướng lĩnh rối rít phái truyền lệnh binh đi tìm Tháp Khắc Tát xin chỉ thị. Cấp thiên phu trưởng cũng sai người đi tìm thượng cấp, trong khi bách phu trưởng lại hối hả dò hỏi cấp trên cần làm gì.
Truyền lệnh binh gặp nhau giữa dòng người hỗn loạn, ai cũng chỉ biết hỏi nhau: “Phải làm gì bây giờ?” – nhưng chẳng ai có được câu trả lời.
Giữa lúc hỗn loạn trên chiến trường, truyền lệnh binh từ khắp nơi hối hả chạy ngược xuôi, miệng không ngừng hô gọi, cố gắng tìm kiếm đội quân mà mình cần báo lệnh, giữa muôn trùng cờ hiệu tung bay như sóng biển.
Cảnh tượng ấy chẳng khác nào trong những quảng trường hay trung tâm thương mại lớn thời sau này, khi người ta cố tìm nhau giữa dòng người đông đúc. Dù đã có hẹn trước qua điện thoại gặp ở đâu đó, cuối cùng vẫn chẳng thấy mặt nhau. Đến mức, cả hai phải quát lên: “Đứng yên đó, đừng có nhúc nhích!”
Nhưng trên chiến trường, làm sao có thể bảo ai đó đứng yên bất động? Dù có lập ra những điểm hội tụ cố định thì liên quân Tây Vực liệu có thực hiện nổi không? Khi thấy thiết kỵ Hán quân ào ào ập tới như tường sắt di động, ai dám đứng tại chỗ mà không động đậy?
Tháp Khắc Tát hiểu rất rõ rằng Trương Liêu đến đây chính là để giải cứu doanh trại, nhưng điều đó không có ích gì. Bởi vì các tướng lĩnh Tây Vực chỉ danh nghĩa là thuộc hạ của hắn, chứ trong tình huống khẩn cấp này, hắn không thể điều động nổi bất kỳ ai.
Kế hoạch của Tháp Khắc Tát là tập trung quân đội Tây Vực chặn đường Trương Liêu, rồi bao vây hắn giữa vòng vây dày đặc. Khi Trương Liêu bị chặn đứng bởi cạm bẫy, liên quân sẽ lấy số đông ép chết đối thủ, không để hắn có cơ hội phản công.
Về lý thuyết, kế hoạch ấy hoàn toàn không có gì sai.
Tháp Khắc Tát biết rất rõ rằng ngay cả quân thân tín của hắn cũng khó có thể chống lại thiết kỵ Hán quân, huống chi là các binh mã của những quốc gia Tây Vực khác. Do đó, ngay từ đầu, Tháp Khắc Tát đã định lấy số lượng bù chất lượng, dùng quân lính tạp nham đối đầu tinh binh Hán quân.
Tuyết trắng trên núi Thiên Sơn vẫn trắng.
Bầu trời Tây Vực vẫn xanh.
Nhưng giữa những sắc màu đẹp đẽ mà lạnh lẽo ấy, giờ đây đã loang lổ màu đỏ của máu tươi.
Đội quân gần nhất đối mặt với Trương Liêu chính là binh mã của nước Thiện Thiện.
Thân vương Đồ Cách La Già của Thiện Thiện gần như muốn khóc.
Người ta càng sợ hãi điều gì, thì điều đó càng dễ xảy ra.
Thiện Thiện vốn muốn tránh xa khỏi sự kiểm soát của Tháp Khắc Tát và quân đội Quý Sương, cho nên đã chọn đóng quân ở vùng rìa ngoài. Nhưng vì đồng cỏ ở phía tây đã bị các bộ lạc khác chiếm giữ hoặc gặm trụi, họ buộc phải tiến về hướng đông.
Ban đầu, Đồ Cách La Già cho rằng đây không phải vấn đề lớn. Ở tuyến ngoài, họ có thể tạm lánh khỏi các cuộc chiến khốc liệt. Khi liên quân Tây Vực tiến quân ra phía trước, đội Thiện Thiện có thể lùi dần về tuyến sau, tìm cơ hội rút lui an toàn.
Nhưng họ chẳng ngờ Trương Liêu lại xuất hiện quá sớm.
Giờ đây, Đồ Cách La Già phải gánh chịu hậu quả từ quyết định của mình.
Khi thiết kỵ Hán quân xuất hiện, những tiếng tù và hỗn loạn vang lên khắp nơi, báo hiệu cho mọi người biết đã có biến. Nhưng vấn đề là không ai rõ cần phải làm gì. Các loại tù và phát ra những âm hiệu khác nhau, tạo thành một mớ âm thanh rối rắm. Những đơn vị gần nhau còn có thể tạm thời điều chỉnh đội hình, nhưng phần lớn binh mã Tây Vực nghe cùng lúc nhiều hiệu lệnh trái ngược, không hiểu phải tuân theo ai.
Kỵ binh Thiện Thiện ở vòng ngoài không có thời gian để chờ lệnh, cũng chẳng phân biệt nổi các hiệu lệnh tù và khác nhau, nên đành theo bản năng mà lao thẳng tới nghênh chiến!
Người Thiện Thiện, hay nói đúng hơn là dân tộc từng mang danh Lâu Lan, từng có thời oai hùng vang dội, được liệt vào hàng thất cường của Tây Vực. Nhưng từ khi bị Hung Nô và Đại Hán thay phiên đánh cho tơi tả, dân Lâu Lan chẳng còn dám giữ cái tên xưa kia, đến cả vương đô cũng phải bỏ chạy, chỉ mong tránh càng xa hai thế lực hung bạo ấy càng tốt.
Vùng đất Tây Hải vốn thuộc về Lâu Lan thuở trước, nhưng giờ đây đã chẳng còn là của họ nữa… Nỗi oán hận với người Hán vẫn luôn âm ỉ trong lòng người Thiện Thiện.
Đau đớn sẽ sinh ra oán hận, nhưng oán hận thì liệu có ích gì?
Khi còn là Lâu Lan, ít nhiều họ vẫn còn đủ sức đấu vài hiệp với Hung Nô và Đại Hán, nhưng giờ đây, khoảng cách giữa Thiện Thiện và Hán triều không những không thu hẹp mà ngày càng bị kéo giãn.
Hung Nô năm xưa còn đủ sức đối đầu trực diện với quân Hán, thậm chí từng vây khốn hoàng đế Hán trên núi, khiến vua Hán suýt chút nữa phải gả cả hoàng hậu để cầu hòa. Nhưng từ khi Đại Hán điên cuồng phát triển, liên tục mở lò rèn, đào tạo quân đội và nâng cấp vũ khí, kỵ binh Hung Nô đành chuyển từ đánh chính diện sang đánh du kích, rồi dùng không gian đổi thời gian để cầm cự.
Trước thế áp đảo tuyệt đối, dù tay nhanh đến đâu cũng không cứu vãn được.
Thiết kỵ của Hán quân nay còn tinh nhuệ và trang bị tốt hơn thời Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh. Các tướng cầm quân đều là hạng anh tài bậc nhất, còn binh mã của Thiện Thiện, dẫu có phần mạnh hơn thời Lâu Lan, thì vẫn chẳng thể so bì với Hán quân.
Kỵ binh Thiện Thiện vung loan đao tấn công thiết kỵ Hán quân, tưởng chừng đao sắc bổ xuống là lấy mạng đối phương, nhưng thực ra chỉ làm bắn vài mảnh giáp hay đứt vài sợi dây da. Những tia lửa bật ra giữa hai bên chẳng kịp thắp lên tia hy vọng nào thì đã cùng với sinh mạng của các kỵ binh Thiện Thiện bị nghiền nát trong trận hình thiết kỵ Hán quân.
Đối diện với sự ngăn chặn yếu ớt của người Thiện Thiện, Trương Liêu thậm chí chẳng hề mảy may bận tâm. Cảm giác xuyên phá trận địa của đối phương nhẹ nhàng như xé tấm màng mỏng.
Ở một bên khác, Thân vương Đồ Cách La Già nhìn đội quân “tinh nhuệ” của mình bị nhấn chìm dưới vó sắt Hán quân, lòng hắn ta như rơi vào hầm băng, đau đớn cùng cực, ngập tràn tuyệt vọng.
Càng cay đắng hơn khi hắn ta nhìn thấy những thiết kỵ Hán quân ở cuối hàng giương lá cờ nhận diện, rồi đâm mạnh xuống bãi chiến trường ngập xác người Thiện Thiện, như một lời thách thức đầy nhục nhã.
“Không! Không thể nào!”
Đồ Cách La Già gào thét trong tuyệt vọng, hy vọng rằng tất cả chỉ là cơn ác mộng, rằng mình vẫn đang mơ, chưa tỉnh dậy.
Nhưng ngay sau đó, mùi tanh nồng của máu tràn ngập khắp chiến trường đã buộc hắn phải chấp nhận sự thật phũ phàng.
Lâu Lan từng không thắng được Đại Hán, Thiện Thiện hôm nay càng không thể.
Và dường như càng ngày càng không có chút hy vọng nào.
Đồ Cách La Già rút phắt thanh đao bên hông, nghiến răng nghiến lợi, vừa vung đao chém về hướng Trương Liêu vừa hét lớn, như thể muốn trút hết oán hận và căm phẫn của mình vào trong mỗi nhát chém hư không đó. hắn ta căm hận đến mức muốn lời nguyền rủa của mình bám lấy từng mảnh giáp, từng mũi thương của đối phương, len lỏi vào trong huyết quản Trương Liêu.
Nhưng ngay sau đó, Đồ Cách La Già như một chiếc túi rỗng xì hơi, cúi gập người xuống, vai buông thõng, xoay đầu ngựa, buông ra mấy lời đứt quãng đầy cay đắng:
“Rút! Rút mau!”
Danh Sách Chương:
Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
02 Tháng năm, 2020 22:06
ta ko thấy phe bên Giang Đông có lý do gì gửi người tới ám sát Phỉ Tiềm
02 Tháng năm, 2020 19:04
Bác nào có bản đồ các thế lực đến thời điểm hiện tại không.
Cảm ơn :d
02 Tháng năm, 2020 13:38
Thực ra là bộ tộc Hoa thuộc sông Hạ, để phân biệt với Thần Nông ở phía Nam, Xi Vưu và Hiên Viên.
Hạ là quốc gia cổ đầu tiên của người Hoa thống nhất được vùng Nam sông Hoàng Hà (Hạ Hà), phân biệt với các bộ tộc nằm ở phía Bắc con sông (Hà Bắc).
Sau chiến tranh của các bộ tộc thì gom chung lại thành tộc Hoa, Hạ quốc và các tiểu quốc cổ xung quanh. (Ngô, Việt, Sở, Tần, Yến, Thục, kể cả phần Hồ Nam, lưỡng Quảng đều bị xem là ngoại quốc, chỉ bị xáp nhập về sau).
Tính ra xứ đông Lào cũng có máu mặt, từ thời Thần Nông tới giờ vẫn còn tồn tại quốc hiệu :v
02 Tháng năm, 2020 13:28
Trong nội bộ Nho gia thực ra cũng không có thống nhất mà là chèn ép lẫn nhau.
thực ra cái Bảo giáp mới là động cơ để bị am sát: thống kê dân cư và tăng cường giám sát ở địa phương
02 Tháng năm, 2020 13:24
Sĩ tộc giang nam. không loại trừ là Tôn Quyền ra lệnh qua Trương Chiêu mà vượt quyền Chu Du
02 Tháng năm, 2020 12:45
các ông nói người giang lăng là chu du sắp đặt hay thế lực khác.
02 Tháng năm, 2020 11:23
Mấy con tốt chờ phong Hậu ấy là Chèn ép Nho gia cầu chân cầu chánh hay ngắn gọn là tạo Triết học; bình dân thi cử; Colonize;...
02 Tháng năm, 2020 11:18
Tiềm như ván cờ đã gài đc xa mã hậu đúng chổ, tượng cũng trỏ ngay cung vua, chốt thì một đường đẩy thẳng thành hậu thứ hai là ăn trọn bàn cờ. Không đánh ngu thì không chết, chư hầu chỉ còn nước tạo loạn xem có cửa ăn không thôi.
02 Tháng năm, 2020 09:43
Diễm Diễm lâm nguy, hu hu.
02 Tháng năm, 2020 08:54
Một trong những nguồn mà tôi tìm đọc trên Gúc gồ nghe cũng có lý nè:
Danh từ Hoa Hạ là 1 từ ghép có nguồn gốc là địa danh khởi nguồn của dân tộc đó, Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay. (Dân núi Hoa sông Hạ). Vì vậy dân tộc của họ xưng danh là "Hoa Hạ" có nghĩa là đẹp đẽ, gợi nhớ đến nhà nước Hạ cổ của họ.
Dân tộc Hoa Hạ còn có 1 tên gọi khác là dân tộc Hán, danh từ "Hán" xuất hiện từ khoảng thế kỉ III TCN xuất phát từ nhà Hán, một triều đại kế tiếp của nhà Tần. Người Hoa coi thời gian trị vì của nhà Hán, kéo dài 400 năm, là một trong những giai đoạn vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử của họ. Vì thế, đa phần người Hoa ngày nay vẫn tự cho mình là "người Hán", để vinh danh dòng họ Lưu và triều đại mà họ đã sáng lập ra. ( Trước có độc giả nói là "Hãn" nên đọc phần này để bổ trợ kiến thức).
Người Hoa cổ đại vốn sống ở khu vực Trung Á, sống kiểu du mục, chăn nuôi gia súc lớn, đến khoảng 5000 năm TCN thì họ mới bắt đầu tiến xuống phía nam ( khu vực lưu vực sông Hoàng Hà ngày nay). Ở đây với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai mầu mỡ, đồng bằng rộng lớn do có sông Hoàng Hà bồi đắp nên tổ tiên của người Hoa đã bỏ lối sống du muc, chuyển sang sống định cư và canh tác nông nghiệp với các loại cây trồng và vật nuôi phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của vùng ôn đới lạnh, khô ở đồng bằng Hoa Bắc ( vì thế các học giả gọi văn hóa Hán là văn minh nông nghiệp khô), điều này đã chứng minh qua các nghiên cứu khảo cổ và dân tộc học được chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố và thừa nhận.
Bắt đầu từ 'cái nôi' Hoàng Hà mà người Hoa cổ đại đã gây dựng nên văn minh Trung Hoa rực rỡ, với những nhà nước đầu tiên là Hạ, Thương, Chu. Lãnh thổ của họ thời này chỉ nằm trong phạm vi miền bắc và trung Trung Quốc ngày nay, (Vùng đất này về sau người Hán tự gọi là Trung Nguyên để đề cao vai trò của nó trong lịch sử Trung Quốc). Trải qua khoảng 1500 năm đến khi Tần Doanh Chính xưng đế lãnh thổ của Hoa tộc mới được mở rộng đáng kể về phía nam, lấn chiếm lưu vực sông Dương Tử, đồng hóa các dân tộc nhỏ hơn để mở mang bờ cõi, hình thành nên đế quốc của riêng họ, danh từ "Trung Quốc" được hiểu như 1 quốc gia rộng lớn bắt đầu từ đây, đến mãi đời nhà Thanh về cơ bản lãnh thổ của Hán tộc mới giống hiện nay, trải dài gần 10 triệu km2 với gần 1,4 tỉ người.
Như vậy, rõ ràng văn hóa Hán có nguồn gốc du mục, sau đó là nền nông nghiệp ở xứ lạnh, khô, khác xa với văn hóa Việt cổ vốn mang tính chất nông nghiệp lúa nước ở xứ Nhiệt đới ẩm gió mùa. Đây là sự khác biệt về cội rễ giữa nền văn hóa Việt và văn hóa Hán
02 Tháng năm, 2020 01:00
ko thể ép tác giả như vậy được, vì dù sao cũng là viết cho người hiện đại đọc, nhiều thành ngữ điển cố còn chưa xảy ra vẫn phải lấy ra dùng mà.
02 Tháng năm, 2020 00:55
tác hơi bị nhầm chỗ này
02 Tháng năm, 2020 00:54
ý là nhắc đến hoa hạ thì người nghe main nói sao hiểu dc đấy là nói về đất hán nhân ấy
01 Tháng năm, 2020 16:43
Gúc Hoa hạ là ra nha bạn.
01 Tháng năm, 2020 16:40
Sáng mai tôi cafe thuốc lá xong tui úp nhé!!!
01 Tháng năm, 2020 11:58
c779 main có nhắc tới hoa hạ, nhưng mà thời đó làm gì đã có trung hoa mà có hoa hạ nhỉ
30 Tháng tư, 2020 19:25
Độc giả không biết mục đích cuối cùng của Phỉ Tiềm là nhập tâm vào thời đại rồi đấy.
Cả đám chỉ biết hoang mang chém gió ngồi suy đoán mục đích ông Tiềm rồi đợi tới khi có động tác mới ồ lên.
30 Tháng tư, 2020 15:43
ngày lễ lão Nhu đăng chương đeee
30 Tháng tư, 2020 13:23
ông Huy Quốc, ta là đang nói thằng main óc bã đậu chứ có nói ông đâu, vãi cả chưởng
30 Tháng tư, 2020 07:01
nói gì thì nói thời đại đang rung chuyển thế này mà tác vẫn bình tâm tĩnh khí mà câu chương được là mừng của nó rồi. chứ như các bộ khác bị đẩy nhanh tiến độ end sớm là buồn lắm.
29 Tháng tư, 2020 23:55
Phụng xuống Long thay à?
29 Tháng tư, 2020 08:31
Bôi vì mấy cái đó chả ai nói, cứ lôi mấy cái chi hồ dã vô bôi cho đủ chữ chả ăn chửi. Từ trên xuống dưới có ai chửi con tác vì nội dung truyên đâu toàn chửi vì bôi chương bôi chữ quá đáng xong có thằng vô nâng cao quản điểm là "CHẤT" này nọ tôi mới chửi thôi.
28 Tháng tư, 2020 21:44
Hình như tác đã có lần than là ngồi đọc mấy cái sử cũ mà đau đầu, mà đau đầu thì phải bôi chữ ra rồi, nhưng so với hồi đầu thì cũng bôi ra tương đối đấy.
28 Tháng tư, 2020 17:44
Công nhận ban đầu còn tác viết ổn, đi từng vấn đề, mở map chắc tay, giờ vì câu chương câu chữ bôi ra ca đống thứ. Nói thật giờ đây tôi còn éo biết con tác vẽ cho phỉ tiềm mục đích cuối cùng để kết truyện là gì nữa đây.
28 Tháng tư, 2020 16:13
Thôi mấy ông ơi!!!! Tôi xin.....
BÌNH LUẬN FACEBOOK