“Yên tâm.” – Tháp Khắc Tát đầy tự tin nói, “Kế hoạch của ta không hề có vấn đề.”
Bộ Sâm liếc nhìn Tháp Khắc Tát, thấy vẻ đắc ý lộ rõ trên mặt y. Không hiểu sao trong lòng Bộ Sâm bỗng dâng lên một cảm giác bất an, như có điều gì không ổn.
“Sao?” – Tháp Khắc Tát nhận ra nét ngờ vực trong ánh mắt của Bộ Sâm, bèn cười khẩy: “Đại sư không tin ư? Ta thực sự đã có kế hoạch. Ngươi biết đấy, người Hán luôn thích tấn công vào bản trận của địch… chính là khu vực này.”
Nói rồi, Tháp Khắc Tát giơ tay chỉ về khu vực phía trước, như thể đã nắm chắc cục diện trong tay.
“Quân Hán rất mạnh.” – Tháp Khắc Tát ngẩng cao đầu, phô bày cả những sợi lông mũi lưa thưa, giọng điệu đầy kiêu căng. “Chính vì mạnh nên chúng rất kiêu ngạo! Đúng vậy, kiêu ngạo. Và chính chúng ta sẽ lợi dụng điểm này! Mỗi lần ra quân, người Hán luôn tấn công vào bản trận của đối thủ, làm tan rã đội hình, rồi từ đó tung ra những đòn đánh tiếp nối, không cho đối phương cơ hội phản công…”
Tháp Khắc Tát nhếch môi cười đắc ý: “Giờ ta đã biết bí mật của chúng, nên ta đã giăng bẫy tại đây! Bẫy! Ha ha ha! Đại sư, ngươi cứ chờ xem ta đá bay quân Hán thế nào!”
Bộ Sâm khẽ gật đầu, không nói lời nào. Hai tay y chắp lại, miệng niệm một câu Phật hiệu, như đang cầu nguyện cho kế hoạch của Tháp Khắc Tát lần này sẽ thành công.
Đúng vậy, Tháp Khắc Tát đã phát hiện ra “bí mật” của người Hán.
Những tướng lĩnh Hán như Cao Thuận và Trương Liêu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng y. Mặc dù quân số không nhiều, nhưng cả hai người này đều sử dụng chiến thuật tương đồng: đánh thẳng vào bản trận, nơi chủ tướng đóng quân, để gây hoảng loạn và đoạt lấy thắng lợi nhanh chóng.
Chiến pháp đột kích bản trận, chém tướng đoạt cờ, giành chiến thắng ngay từ cú đánh đầu tiên, là một chiến thuật phổ biến ở phương Bắc. Không chỉ Lã Bố thường dùng, mà ngay cả ba huynh đệ Lưu Bị hay những danh tướng dưới trướng Viên Thiệu như Nhan Lương, Văn Sú cũng tinh thông chiến thuật này.
Sau khi thất bại trong việc công phá quân trại của quân Hán, Tháp Khắc Tát đã nảy ra một ý. Y lợi dụng những hố đất đào dở từ lần công kích trước để mở rộng thành bẫy, nhằm ngăn chặn đợt đột kích tiếp theo của quân Hán.
Ban đầu, Tháp Khắc Tát chủ yếu đề phòng quân Hán trong trại sẽ bất ngờ xông ra trong đêm. Nhưng không ngờ, quân trong trại vẫn án binh bất động, còn Trương Liêu lại dẫn quân đến.
“Tốt lắm!” – Tháp Khắc Tát vỗ tay hai cái, tự cổ vũ mình. Y hít một hơi thật sâu, rồi thở ra mạnh mẽ, giọng đầy phấn khích và ngạo nghễ:
“Lại đây nào, các con cưng của ta! Hãy để ta đá bay các ngươi khỏi chiến trường!”
Y chăm chú quan sát từng cử động của Trương Liêu và kỵ binh Hán. Tuy nhiên, trong khi Tháp Khắc Tát mải mê với kế hoạch của mình, y không nhận ra một vấn đề nghiêm trọng đã âm thầm bộc phát trong chính liên quân Tây Vực.
Quân số quá đông, và Tháp Khắc Tát không thể kiểm soát hết.
Tây Vực là nơi tập hợp nhiều tộc người khác nhau. Mỗi tộc không chỉ có văn hóa và ngôn ngữ riêng, mà còn có ý chí và tham vọng riêng.
Sức mạnh của liên quân nằm ở chữ “liên”, nhưng chính chữ “liên” này cũng là nhược điểm chí mạng. Nếu không có sự đồng lòng, một liên quân dù đông đến đâu cũng chẳng khác gì cát rời, chỉ chực tan vỡ dưới áp lực.
Trong khi Tháp Khắc Tát tự tin với kế hoạch của mình, nhiều tộc trưởng đã bắt đầu nghi ngờ lẫn nhau. Một số còn tỏ ra không muốn dốc toàn lực vì lo sợ tổn thất quá lớn cho tộc mình.
Và như một đám cỏ khô gặp gió mạnh, sự chia rẽ trong lòng liên quân Tây Vực bắt đầu bùng lên – ngay khi kỵ binh của Trương Liêu phóng tới như cơn bão sắp ập xuống.
Đây chính là vấn đề chí mạng. Việc điều động quân lực của Tháp Khắc Tát gần như trở nên vô dụng trong tình thế khẩn cấp, nhưng y lại không nhận ra – hoặc cố tình phớt lờ. Đây là nhược điểm lớn nhất của liên quân Tây Vực, một vấn đề đã lộ ra từ lúc bắt đầu, nhưng y lại bỏ qua.
Thực ra, Tháp Khắc Tát chỉ là một thiên phu trưởng, người từng chỉ huy cao nhất cũng chỉ từ ba đến bốn ngàn quân. Kinh nghiệm điều binh khiển tướng quy mô lớn hơn vạn người gần như là con số không. Nay, gánh vác trọng trách thống lĩnh liên quân Tây Vực, y chẳng khác gì Võ Đại Lang gánh phên, phên còn thấy nhưng người thì chẳng thấy đâu!
Trong các bộ phim, ta thường thấy quân đội mười vạn, thậm chí trăm vạn, nhưng trong lịch sử thật sự, một đạo quân đạt mười vạn đã là hiếm thấy. Những trận chiến với quy mô trăm vạn gần như không tưởng, bởi chúng không chỉ cần người mà còn cần đủ lương thực, tài vật để duy trì.
Ngay cả những vương triều hùng mạnh như Tây Vực và Quý Sương, muốn tổ chức một cuộc chiến lên đến trăm vạn quân cũng là điều không thể. Chiến tranh là chuyện con người thực thụ, không phải thứ muốn có là có ngay.
Ngay cả khi dân số có đạt đến hàng triệu, của cải và lương thực để nuôi một đại quân như vậy vẫn là một vấn đề to lớn. Thực tế, trong lịch sử Trung Nguyên, chỉ có khoảng ba trận chiến quy mô triệu người.
Xếp đầu bảng là cuộc viễn chinh Cao Câu Ly của Tùy Dạng Đế.
Tùy Dạng Đế phái 24 đạo quân với tổng quân số hơn triệu người để chinh phạt Cao Câu Ly, trong khi quân Cao Câu Ly chỉ có khoảng 13 vạn. Trước thế chênh lệch quá lớn, Tùy Dạng Đế tự tin rằng mình sẽ chiến thắng dễ dàng, như rồng bay trên trời làm sao thua được.
Thế nhưng, do thời tiết khắc nghiệt ở Liêu Đông, cùng với tính kiêu ngạo của Tùy Dạng Đế và nhiều yếu tố phức tạp khác, quân Tùy thiệt hại hơn 30 vạn, số còn lại bỏ giáp tháo chạy về nước.
Thứ hai là trận Trường Bình – nền tảng vững chắc cho sự thống nhất thiên hạ của nhà Tần.
Trong trận này, quân Triệu có 45 vạn, còn quân Tần – dù là bên tấn công – vẫn có nhiều hơn một chút, khoảng 60 vạn, đủ để tính là một trận chiến vượt mốc triệu người. Kết quả, quân Triệu bị tiêu diệt hoàn toàn, còn quân Tần tổn thất gần một nửa, nhưng danh tướng Bạch Khởi từ đó được tôn vinh là “chiến thần” vô địch.
Nhà Tần thời cực thịnh có khả năng huy động tối đa khoảng 80 vạn quân. Tướng Mông Điềm dẫn 30 vạn quân xây Trường Thành chống Hung Nô, thêm 50 vạn đánh chiếm Lĩnh Nam, thế mà vẫn không đủ sức đối phó Lưu Bang và Hạng Vũ sau này.
Thứ ba là trận Phì Thủy, nơi hoàng đế Phù Kiên của Tiền Tần tập hợp 87 vạn quân, quyết tâm nam chinh tiêu diệt Đông Tấn để thống nhất Trung Nguyên.
Nhưng trước sông Phì, liên quân Tiền Tần – vốn bao gồm nhiều dân tộc khác nhau – tan rã trước khi giao chiến, bị 8 vạn quân Tấn phản công dữ dội, khiến Phù Kiên phải chạy trốn nhục nhã về phương Bắc, làm Tiền Tần nhanh chóng sụp đổ.
Còn như trận Xích Bích nổi tiếng của Tào Tháo, tiếc rằng không đủ để lọt vào top mười.
Dù Tào Tháo tuyên bố có 80 vạn quân, nhưng thực tế chỉ có khoảng 15 vạn, nhiều lắm là 20 vạn. Còn trận Di Lăng, Lưu Bị mang theo khoảng 10 vạn quân, dù miệng thì nói 70 vạn, nhưng cuối cùng vẫn bị 5 vạn quân của Lục Tốn đánh cho đại bại.
Liên quân Tây Vực hiện tại, trước sau cộng lại được 3-4 vạn, nhưng lại tự xưng là 30 vạn.
So với binh lực của Trương Liêu hiện tại, quân số của Tây Vực liên quân quả thực đông đảo hơn. Người đông tất có cái lợi của người đông: chết vài trăm, thậm chí vài nghìn cũng chẳng phải chuyện gì to tát, Tháp Khắc Tát chỉ khẽ nhướn mày, lòng không chút gợn sóng.
Giống như lần trước khi tấn công doanh trại thất bại, Tháp Khắc Tát chẳng mảy may quan tâm đã có bao nhiêu người bỏ mạng, thậm chí còn cảm thấy bớt người đi thì càng đỡ gánh nặng.
Dù sao cũng chỉ là đám già yếu, chết thì cũng chẳng đáng tiếc.
Người đông còn có thêm một điểm tiện lợi: ví dụ như việc đào hố, Tháp Khắc Tát chẳng cần lo sẽ hao tổn sức lực của quân thân tín. Hễ có việc, hắn chỉ cần vung tay bảo: “Đám kia, làm đi!” – việc nào cũng có người làm. Đến nỗi, khi công việc đã hoàn thành, chẳng ai còn nhớ ai đã làm, và làm thế nào.
Quản lý binh mã là một nghệ thuật vi diệu, không phải ai cũng làm được. Từ những trận chiến trăm vạn trong lịch sử Trung Nguyên đã cho thấy: binh lực nhiều không hẳn là điều tốt.
Trong trận Trường Bình, chiến thắng của nước Tần không đến từ việc quân số đông hơn, mà nhờ vào hệ thống chỉ huy chặt chẽ. Cấu trúc chỉ huy kiểu kim tự tháp được thiết lập vững chắc, giúp mệnh lệnh từ thống soái dễ dàng truyền xuống đến cấp thấp nhất.
Ngược lại, những trận đại chiến khác, nếu thống lĩnh yếu kém hoặc binh sĩ không được huấn luyện kỹ càng, tất cả sẽ trở thành một thảm họa. Như trận Phì Thủy, chỉ cần một tiếng hô thất trận, quân Tiền Tần đông đảo đã tự động tan rã như bầy kiến, không cần giao tranh ác liệt mà đã bỏ chạy tán loạn.
Tháp Khắc Tát tưởng rằng mình đã kiểm soát tốt liên quân Tây Vực, nhưng thực tế, y chỉ quen biết các tướng lĩnh đứng đầu các tiểu quốc Tây Vực, còn quân đội bên dưới thì y hoàn toàn không nắm được.
Do đó, mọi mệnh lệnh của y đều phải dựa vào truyền lệnh binh chạy tới chạy lui.
Trong những trận đánh thông thường, nhược điểm này không quá lộ rõ, bởi Tháp Khắc Tát và các tướng Tây Vực có đủ thời gian để hội họp mỗi đêm, bàn bạc rồi phân công nhiệm vụ cho ngày hôm sau. Mọi việc cứ thế tuần tự mà làm, chẳng có gì cấp bách.
Nhưng khi tấn công doanh trại, vấn đề đã dần xuất hiện. Mỗi khi gặp trở ngại giữa trận, Tháp Khắc Tát không thể nhanh chóng ứng biến, chỉ có thể đứng nhìn, chờ đợi đến hôm sau mới tính cách khác. Chính vì thế, dù quân số áp đảo, liên quân Tây Vực vẫn không thể tạo ra sức ép liên tục lên quân doanh địch, sức mạnh không sao phát huy trọn vẹn.
Còn bây giờ thì sao?
Khi Trương Liêu đột kích bất ngờ, nhược điểm này lập tức phơi bày ra toàn bộ.
Tháp Khắc Tát vội sai truyền lệnh binh, các tướng Tây Vực cũng lập tức phái người đi truyền lệnh. Nhưng truyền lệnh binh không thể như trong trò chơi chiến thuật, nháy mắt đã đến nơi. Trong biển người đông đúc, họ phải lần mò từng bước để tìm người cần báo lệnh. Thảm hại hơn, những người họ đang tìm lại không đứng yên tại chỗ, khiến việc tìm kiếm càng thêm khó khăn.
Trong khi đó, Trương Liêu đã không để cho liên quân Tây Vực có cơ hội bàn bạc, mà xuất quân tấn công ngay lập tức!
Những tiếng hô hào vang dội trong hàng ngũ Tây Vực, từng tướng lĩnh rối rít phái truyền lệnh binh đi tìm Tháp Khắc Tát xin chỉ thị. Cấp thiên phu trưởng cũng sai người đi tìm thượng cấp, trong khi bách phu trưởng lại hối hả dò hỏi cấp trên cần làm gì.
Truyền lệnh binh gặp nhau giữa dòng người hỗn loạn, ai cũng chỉ biết hỏi nhau: “Phải làm gì bây giờ?” – nhưng chẳng ai có được câu trả lời.
Giữa lúc hỗn loạn trên chiến trường, truyền lệnh binh từ khắp nơi hối hả chạy ngược xuôi, miệng không ngừng hô gọi, cố gắng tìm kiếm đội quân mà mình cần báo lệnh, giữa muôn trùng cờ hiệu tung bay như sóng biển.
Cảnh tượng ấy chẳng khác nào trong những quảng trường hay trung tâm thương mại lớn thời sau này, khi người ta cố tìm nhau giữa dòng người đông đúc. Dù đã có hẹn trước qua điện thoại gặp ở đâu đó, cuối cùng vẫn chẳng thấy mặt nhau. Đến mức, cả hai phải quát lên: “Đứng yên đó, đừng có nhúc nhích!”
Nhưng trên chiến trường, làm sao có thể bảo ai đó đứng yên bất động? Dù có lập ra những điểm hội tụ cố định thì liên quân Tây Vực liệu có thực hiện nổi không? Khi thấy thiết kỵ Hán quân ào ào ập tới như tường sắt di động, ai dám đứng tại chỗ mà không động đậy?
Tháp Khắc Tát hiểu rất rõ rằng Trương Liêu đến đây chính là để giải cứu doanh trại, nhưng điều đó không có ích gì. Bởi vì các tướng lĩnh Tây Vực chỉ danh nghĩa là thuộc hạ của hắn, chứ trong tình huống khẩn cấp này, hắn không thể điều động nổi bất kỳ ai.
Kế hoạch của Tháp Khắc Tát là tập trung quân đội Tây Vực chặn đường Trương Liêu, rồi bao vây hắn giữa vòng vây dày đặc. Khi Trương Liêu bị chặn đứng bởi cạm bẫy, liên quân sẽ lấy số đông ép chết đối thủ, không để hắn có cơ hội phản công.
Về lý thuyết, kế hoạch ấy hoàn toàn không có gì sai.
Tháp Khắc Tát biết rất rõ rằng ngay cả quân thân tín của hắn cũng khó có thể chống lại thiết kỵ Hán quân, huống chi là các binh mã của những quốc gia Tây Vực khác. Do đó, ngay từ đầu, Tháp Khắc Tát đã định lấy số lượng bù chất lượng, dùng quân lính tạp nham đối đầu tinh binh Hán quân.
Tuyết trắng trên núi Thiên Sơn vẫn trắng.
Bầu trời Tây Vực vẫn xanh.
Nhưng giữa những sắc màu đẹp đẽ mà lạnh lẽo ấy, giờ đây đã loang lổ màu đỏ của máu tươi.
Đội quân gần nhất đối mặt với Trương Liêu chính là binh mã của nước Thiện Thiện.
Thân vương Đồ Cách La Già của Thiện Thiện gần như muốn khóc.
Người ta càng sợ hãi điều gì, thì điều đó càng dễ xảy ra.
Thiện Thiện vốn muốn tránh xa khỏi sự kiểm soát của Tháp Khắc Tát và quân đội Quý Sương, cho nên đã chọn đóng quân ở vùng rìa ngoài. Nhưng vì đồng cỏ ở phía tây đã bị các bộ lạc khác chiếm giữ hoặc gặm trụi, họ buộc phải tiến về hướng đông.
Ban đầu, Đồ Cách La Già cho rằng đây không phải vấn đề lớn. Ở tuyến ngoài, họ có thể tạm lánh khỏi các cuộc chiến khốc liệt. Khi liên quân Tây Vực tiến quân ra phía trước, đội Thiện Thiện có thể lùi dần về tuyến sau, tìm cơ hội rút lui an toàn.
Nhưng họ chẳng ngờ Trương Liêu lại xuất hiện quá sớm.
Giờ đây, Đồ Cách La Già phải gánh chịu hậu quả từ quyết định của mình.
Khi thiết kỵ Hán quân xuất hiện, những tiếng tù và hỗn loạn vang lên khắp nơi, báo hiệu cho mọi người biết đã có biến. Nhưng vấn đề là không ai rõ cần phải làm gì. Các loại tù và phát ra những âm hiệu khác nhau, tạo thành một mớ âm thanh rối rắm. Những đơn vị gần nhau còn có thể tạm thời điều chỉnh đội hình, nhưng phần lớn binh mã Tây Vực nghe cùng lúc nhiều hiệu lệnh trái ngược, không hiểu phải tuân theo ai.
Kỵ binh Thiện Thiện ở vòng ngoài không có thời gian để chờ lệnh, cũng chẳng phân biệt nổi các hiệu lệnh tù và khác nhau, nên đành theo bản năng mà lao thẳng tới nghênh chiến!
Người Thiện Thiện, hay nói đúng hơn là dân tộc từng mang danh Lâu Lan, từng có thời oai hùng vang dội, được liệt vào hàng thất cường của Tây Vực. Nhưng từ khi bị Hung Nô và Đại Hán thay phiên đánh cho tơi tả, dân Lâu Lan chẳng còn dám giữ cái tên xưa kia, đến cả vương đô cũng phải bỏ chạy, chỉ mong tránh càng xa hai thế lực hung bạo ấy càng tốt.
Vùng đất Tây Hải vốn thuộc về Lâu Lan thuở trước, nhưng giờ đây đã chẳng còn là của họ nữa… Nỗi oán hận với người Hán vẫn luôn âm ỉ trong lòng người Thiện Thiện.
Đau đớn sẽ sinh ra oán hận, nhưng oán hận thì liệu có ích gì?
Khi còn là Lâu Lan, ít nhiều họ vẫn còn đủ sức đấu vài hiệp với Hung Nô và Đại Hán, nhưng giờ đây, khoảng cách giữa Thiện Thiện và Hán triều không những không thu hẹp mà ngày càng bị kéo giãn.
Hung Nô năm xưa còn đủ sức đối đầu trực diện với quân Hán, thậm chí từng vây khốn hoàng đế Hán trên núi, khiến vua Hán suýt chút nữa phải gả cả hoàng hậu để cầu hòa. Nhưng từ khi Đại Hán điên cuồng phát triển, liên tục mở lò rèn, đào tạo quân đội và nâng cấp vũ khí, kỵ binh Hung Nô đành chuyển từ đánh chính diện sang đánh du kích, rồi dùng không gian đổi thời gian để cầm cự.
Trước thế áp đảo tuyệt đối, dù tay nhanh đến đâu cũng không cứu vãn được.
Thiết kỵ của Hán quân nay còn tinh nhuệ và trang bị tốt hơn thời Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh. Các tướng cầm quân đều là hạng anh tài bậc nhất, còn binh mã của Thiện Thiện, dẫu có phần mạnh hơn thời Lâu Lan, thì vẫn chẳng thể so bì với Hán quân.
Kỵ binh Thiện Thiện vung loan đao tấn công thiết kỵ Hán quân, tưởng chừng đao sắc bổ xuống là lấy mạng đối phương, nhưng thực ra chỉ làm bắn vài mảnh giáp hay đứt vài sợi dây da. Những tia lửa bật ra giữa hai bên chẳng kịp thắp lên tia hy vọng nào thì đã cùng với sinh mạng của các kỵ binh Thiện Thiện bị nghiền nát trong trận hình thiết kỵ Hán quân.
Đối diện với sự ngăn chặn yếu ớt của người Thiện Thiện, Trương Liêu thậm chí chẳng hề mảy may bận tâm. Cảm giác xuyên phá trận địa của đối phương nhẹ nhàng như xé tấm màng mỏng.
Ở một bên khác, Thân vương Đồ Cách La Già nhìn đội quân “tinh nhuệ” của mình bị nhấn chìm dưới vó sắt Hán quân, lòng hắn ta như rơi vào hầm băng, đau đớn cùng cực, ngập tràn tuyệt vọng.
Càng cay đắng hơn khi hắn ta nhìn thấy những thiết kỵ Hán quân ở cuối hàng giương lá cờ nhận diện, rồi đâm mạnh xuống bãi chiến trường ngập xác người Thiện Thiện, như một lời thách thức đầy nhục nhã.
“Không! Không thể nào!”
Đồ Cách La Già gào thét trong tuyệt vọng, hy vọng rằng tất cả chỉ là cơn ác mộng, rằng mình vẫn đang mơ, chưa tỉnh dậy.
Nhưng ngay sau đó, mùi tanh nồng của máu tràn ngập khắp chiến trường đã buộc hắn phải chấp nhận sự thật phũ phàng.
Lâu Lan từng không thắng được Đại Hán, Thiện Thiện hôm nay càng không thể.
Và dường như càng ngày càng không có chút hy vọng nào.
Đồ Cách La Già rút phắt thanh đao bên hông, nghiến răng nghiến lợi, vừa vung đao chém về hướng Trương Liêu vừa hét lớn, như thể muốn trút hết oán hận và căm phẫn của mình vào trong mỗi nhát chém hư không đó. hắn ta căm hận đến mức muốn lời nguyền rủa của mình bám lấy từng mảnh giáp, từng mũi thương của đối phương, len lỏi vào trong huyết quản Trương Liêu.
Nhưng ngay sau đó, Đồ Cách La Già như một chiếc túi rỗng xì hơi, cúi gập người xuống, vai buông thõng, xoay đầu ngựa, buông ra mấy lời đứt quãng đầy cay đắng:
“Rút! Rút mau!”
Danh Sách Chương:
Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
18 Tháng năm, 2020 05:55
Quách đang thiếu rượu kìa :)) giờ có cớ qua đòi rồi đấy.
18 Tháng năm, 2020 05:35
100 vò rượu ngon thôi bạn. Chương 84: 03 năm đổ ước.
18 Tháng năm, 2020 03:56
trước thấy tác đặt cái vụ Phỉ với Quách uống rượu đánh đố. Nếu Quách thua thì đi theo Phỉ. Đệt. Tác quên rồi
17 Tháng năm, 2020 17:43
Chương 1600: Ngũ cổ thượng đại phu
17 Tháng năm, 2020 17:31
Tuân Úc ở Tào, Tuân Du ở Phí Tiền.... Xem chương 3000 binh đổi Tuân Du
17 Tháng năm, 2020 15:30
chủ yếu là chưa làm đc cái dây cót ấy, còn mài bánh răng thì thực tế ko khó.
17 Tháng năm, 2020 15:19
con tác lộn tên chứ gì nữa :v
17 Tháng năm, 2020 14:53
tuân út sao lúc thì ở chỗ con phỉ lúc thì con tào là sao nhỉ??!
17 Tháng năm, 2020 14:25
Mật chiếu là y đái chiếu hả thím?
17 Tháng năm, 2020 12:21
tới đoạn Mật chiếu viết bằng máu cmnr :v
17 Tháng năm, 2020 11:13
Vương Xán, Vương Trọng Tuyên, nhà thơ nổi tiếng thời Tam Quốc, lòng mang thiên hạ và triều đình. Truyện này con tác lựa nhân vật hay thật.
17 Tháng năm, 2020 10:48
Mã Long - Khúc Tĩnh - Triêm Ích
17 Tháng năm, 2020 10:47
chính xác là nằm ở Mã Long, Khúc Tĩnh
17 Tháng năm, 2020 10:46
túm quần thì theo bản đồ thời tây tấn thì Kiến ninh nằm trong tứ giác Điền Trì, Thạch Lâm, Bản Gia Lâm, Cẩm Đái Sơn. Thu hẹp lại dọc theo con sông nối điền trì vs Chu Đề Quan thì đoạn giao giới có Kiến Ninh Quan, bắn ra bản đồ hiện đại thì nó nằm ở Khúc Tĩnh.
Từ cuối triều Hán tới Đường triều thì thủ phủ của Vân Nam là Kiến Ninh, về sau lập ra thêm Đại Lý, Nam Chiếu vs 1 số tiểu quốc thì lại tách ra, về tới Minh Thanh thì thủ phủ của Vân Nam là Côn Minh.
17 Tháng năm, 2020 09:08
Nguồn ZH.Wiki
Kiến Ninh quận, Trung Quốc Ngụy Tấn Nam Bắc Triều lúc thiết trí quận.
Kiến Ninh quận tức Ích Châu Quận, Tam Quốc Thục Hán xây hưng ba năm (225 năm) đổi Ích Châu Quận đưa Kiến Ninh quận, lai hàng đô đốc trị Kiến Ninh quận. Trị chỗ Vị Huyện (nay Vân Nam tỉnh Khúc Tĩnh thị Tây Bắc mười lăm dặm ba xóa). Thục Hán lúc Kiến Ninh quận hạ hạt 18 huyện. Hạt cảnh ước đương kim Vân Nam tỉnh nam bàn Giang Lưu vực phía tây, Tứ Xuyên tỉnh lị Lý Huyện, sẽ đông huyện hai huyện Kim Sa giang phía Nam, Vân Nam tỉnh song bách huyện, Ái Lao núi lấy đông cùng Tân Bình huyện, hoa thà huyện hai huyện phía bắc địa khu, thuộc Ích Châu. Tây Tấn thuộc thà châu, hạt 17 huyện: Vị, Côn Trạch, tồn 䣖, mới định, đàm khô héo, mẹ đơn, Đồng Lại, Lậu Giang, mục nha, Cốc Xương, Liên Nhiên, Tần Tang, song bách, Du Nguyên, tu mây, lạnh khâu, Điền Trì. 38000 hộ. Đông Tấn lúc, hạt cảnh vẻn vẹn đương kim Vân Nam tìm điện huyện, Nghi Lương huyện, Di Lặc huyện chờ lấy đông địa khu. Triều đại Nam Tề dời trị cùng vui huyện (nay Vân Nam Lục Lương huyện tây), nam lương đại bảo về sau phế Kiến Ninh quận.
Nam triều Tống sơ kiều đưa Kiến Ninh quận, lại tên Kiến Ninh trái quận. Trị Kiến Ninh huyện (nay Hồ Bắc tê dại thành thị Tây Nam). Thuộc Dĩnh châu. Đại Minh tám năm (464 năm) xuống làm huyện. Triều đại Nam Tề thăng làm Kiến Ninh quận. Bắc Chu thuộc nam Định Châu, Tùy Văn Đế Khai hoàng ba năm (583 năm) phế Kiến Ninh quận.
17 Tháng năm, 2020 08:50
1765
17 Tháng năm, 2020 08:50
Hôm trước mình hỏi thành Kiến Ninh hiện tại ở đâu có người bảo là Côn Minh, chương mới này có nhắc đến Côn Minh nhưng ở phía dưới nữa
17 Tháng năm, 2020 08:02
Giao Chỉ lúc này còn trong quản hạt nên con tác chắc sẽ không có kiểu mạt sát dân tộc, nên chắc không phải drop, haizz. Tới năm 5xx Lý Bí mới tuyên bố độc lập mà.
17 Tháng năm, 2020 01:07
Tiềm có khi đánh vòng xuống nam nuốt đông lào,... à, đông dương ấy chứ. mặc dù lúc này chỉ có Lào, Nam Lào vs Đông Lào thôi, Tây Lào chưa xuất hiện
16 Tháng năm, 2020 19:44
Hạ Hầu Uyên chuẩn bị đi đời. Dự là Tiềm chắc đánh với Tháo sớm.
16 Tháng năm, 2020 18:49
lão nói quá đúng...
16 Tháng năm, 2020 16:56
trình độ luyện kim chưa đủ để làm chuỗi bánh răng thu nhỏ
16 Tháng năm, 2020 16:42
cái dây cót là một linh kiện yêu cầu công nghệ luyện kim khá cao, hiện tại giai đoạn của Phỉ Tiềm ko tạo được
16 Tháng năm, 2020 16:34
đọc cái đoạn lễ tuyên dương quan Giáo hóa, ta hơi thắc mắc thằng main sao không có ý tưởng thiết kế đồng hồ dây cót nhỉ
16 Tháng năm, 2020 16:06
Phía nam là là vụ gì đây ta?
BÌNH LUẬN FACEBOOK