Mục lục
Quỷ Tam Quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Không cần biết Từ Hoảng và Ngụy Diên liệu có hiểu được toàn bộ bố cục của Phỉ Tiềm hay không, hoặc có nắm rõ tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng hay không, thì những công trình tiền đề của đại nghiệp đã bắt đầu được thúc đẩy mạnh mẽ. Ví như một lượng lớn tù binh mà Ngụy Diên vừa áp giải về, không bị đơn thuần giết chết hay giam cầm vô ích, mà hầu hết đều được đưa vào các doanh trại lao công.

Trong doanh trại này, có ba loại lao động chính.

Thứ nhất, là những người nghèo khổ, không có tài sản.

Không chỉ có những nông dân mất đất, mà còn có cả những người du mục xung quanh. Những người này vì thiên tai, nhân họa mà mất đi tư liệu sản xuất, thà làm việc cho Phỉ Tiềm với lương cao hơn, còn hơn làm nô lệ cho kẻ khác.

Thứ hai, là tù binh chiến tranh.

Lần này, một lượng lớn tù binh từ Xuyên Thục và Hán Trung đã được bổ sung, cùng với những tù binh Khương nhân từ Lũng Tây, trở thành nguồn lao động giá rẻ, góp phần vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng của Đại Hán.

Thời Đông Hán, những Khương nhân và Để nhân này là một lực lượng rất hùng mạnh. Khi lật lại lịch sử của các địa phương, họ thường là một phần quan trọng của các huyện thành. Từ Hán Hằng Đế, dường như không năm nào khu vực này được yên ổn, thường xuyên bùng phát bạo loạn và thậm chí là phản loạn, với những cuộc xung đột vô cùng khốc liệt.

Trong tình cảnh đó, triều đình Hán coi việc phòng bị những Khương nhân và Để nhân là nhiệm vụ quan trọng của các quan địa phương, dẫn đến việc đàn áp tàn nhẫn, nhưng vẫn không thể tiến sâu vào lãnh địa của họ, cho đến khi Phỉ Tiềm xuất hiện.

Có lẽ nhiều sĩ tộc con em sẽ thấy khó hiểu, tại sao cũng là thái thú địa phương, nhưng những người được triều đình phái trước đây thì thất bại, trong khi Giả Hủ được Phỉ Tiềm phái lại có thể đạt được kết quả khác biệt?

Kỳ thực rất đơn giản, một quan địa phương chỉ lo vơ vét của cải để rồi nhanh chóng rút lui, thì làm sao có thể đóng góp điều gì cho vùng đất ấy, hay quản lý tốt được?

Những quan tham nhũng từng tàn phá vùng đất này, đang dần bị bắt giữ, điều tra và trừng phạt, phải trả giá đắt. Không chỉ họ, mà cả gia đình của họ cũng bị liên lụy.

Những ai phạm tội nhẹ, có thể chỉ là nhất thời mờ mắt, phạm tội không nhiều, thì sau khi nộp phạt từ ba đến năm lần số tiền tham ô, gần như đến mức tán gia bại sản, họ có thể bắt đầu lại cuộc sống mới. Nhưng những kẻ tham nhũng trầm trọng, số lượng lớn, không chỉ mất hết tài sản, thậm chí tự sát cũng không thể thoát tội. Dù chính bản thân họ chết đi, gia đình họ vẫn phải chịu liên lụy.

Những người này cũng trở thành một trong ba loại lao động tại doanh trại lao công, nhưng vai trò của họ không chỉ đơn thuần là chuộc lại lỗi lầm, mà còn để cảnh tỉnh và răn đe người khác...

Hiệu ứng "liên lụy" này khiến chi phí tham nhũng trở nên vô cùng cao, buộc nhiều quan lại phải cân nhắc kỹ trước khi phạm tội. Bởi lẽ tự sát đã đủ đau khổ, mà ngay cả cái chết cũng không giải quyết được vấn đề, còn liên lụy đến gia đình, thậm chí cả dòng họ, thì quả là một vấn đề lớn. Nếu không, thử so sánh với thời hậu thế, nơi có nhà tù riêng biệt, ở một mình trong phòng nhỏ, ăn uống đầy đủ, nửa đầu đời tận hưởng vinh hoa, đêm nào cũng tiệc tùng. Khi sức khỏe suy giảm vì tiệc tùng, rượu chè, thì nửa cuối đời vào tù lại sống điều độ, ngủ sớm dậy sớm, ăn uống thanh đạm, có khi còn sống thọ hơn, tham gia phỏng vấn đặc biệt, viết sách... Cuộc đời trước hưởng thụ, sau dưỡng sinh, thật là mỹ mãn. Đây có phải là lời cảnh tỉnh không? Hay là một câu chuyện truyền cảm hứng?

Về phần những người Khương nhân và Để nhân bình thường, thì tình cảnh của họ đương nhiên tốt hơn nhiều so với gia quyến của quan lại tham nhũng. Không phải vì điều kiện sống của những tù binh Khương, Để nhân tốt hơn, mà bởi họ có thể thích ứng với công việc lao động nặng nhọc. Ngay cả những tù trưởng của các bộ lạc Khương và Để cũng thường tự thân tham gia lao động, và nhiều người trong số họ còn có một số kỹ năng như nghề mộc hoặc thuần dưỡng gia súc. Trái lại, gia quyến của các quan lại tham ô ngoài việc văn chương giấy bút thì hầu như không biết làm gì khác.

Trong các trại lao công, những người thợ thường được tách ra thành một đội riêng, chịu trách nhiệm sửa chữa và chế tạo công cụ lao động. Những người khác thì làm công việc khổ sai hoàn toàn. Đặc biệt, theo Tham Độc Luật, gia quyến của những quan lại tham nhũng trong vòng ba đời không được phép giữ bất kỳ chức vụ quản lý nào, kể cả những chức vụ nhỏ như tính công điểm trong trại cũng không được đảm nhận. Điều này đã khiến họ mất đi cơ hội cuối cùng để nương tựa.

Khi các quan lại mới của Đại Hán nhìn thấy gia quyến của các quan tham ô trước đây bị buộc phải lao động, thấy họ từ những kẻ béo tròn trắng trẻo dần dần gầy đen đi, và chứng kiến nhiều người trong số đó không chịu nổi lao khổ mà tự kết liễu đời mình, khiến cả gia đình diệt vong, điều này tạo nên một dấu ấn sâu sắc trong tâm trí họ, còn hiệu quả hơn việc treo da người ở công đường.

Liệu có ai dám mạo hiểm để gia đình mình chết sạch mà đi tham ô không?

Chỉ cần nghĩ thêm một lần, kết quả có thể sẽ rất khác.

Dưới sự cai trị của Phỉ Tiềm, khi luật "Tham Độc" được thực thi nghiêm ngặt, nhìn vào những lao công thuộc loại thứ ba trong trại, nhiều quan lại cũng phải đắn đo suy nghĩ.

Trước đây, một số quan lại có thể dùng kỹ năng "làm quan" để uy hiếp Phỉ Tiềm, nhưng giờ đây, khi càng ngày càng nhiều vấn đề nhỏ nhặt được ghi lại chi tiết bởi Trực Doãn Giam và trở thành chuẩn mực tham khảo, giống như những quy tắc vận hành trong xưởng, thì việc đào tạo một viên quan thực sự không khó, mà khó là tạo ra một người thợ lành nghề.

Đối với phần lớn quan lại cấp trung và cấp thấp, họ chẳng khác gì những "người công nhân" trên quan trường, hoàn toàn không thể xem là "nghệ nhân". Trong số đó, có không ít người không có chí lớn, chỉ biết ngày nào hay ngày đó, làm việc cứng nhắc, đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian, và nếu có thể lười biếng cả ngày thì tuyệt đối không chỉ làm nửa ngày. Những quan lại như vậy, việc thay thế có khó khăn gì?

Rất nhiều sĩ tử nghèo, những kẻ xuất thân hàn vi, đang dõi mắt chờ đợi vị trí trống. Thậm chí, còn có những học giả nông nghiệp, kỹ sư và tuần kiểm từ cơ sở đi lên. Nếu có ai đó từ chức, lập tức sẽ có nhiều người sẵn sàng thay thế, thì làm sao có thể uy hiếp được ai?

Việc từ quan, sau vụ việc của Bùi Viên, đã trở thành một lựa chọn cực kỳ rắc rối. Nếu còn đang tại chức mà chưa bị điều tra, họ có thể ngầm bù đắp lại thiếu hụt, làm lại sổ sách, nhưng một khi đã từ chức, liệu người kế nhiệm có chấp nhận gánh lấy khoản thiếu hụt đó không?

Lập tức sẽ có người điều tra...

Chỉ còn cách cúi đầu, nín thở, và không dám làm bất kỳ điều gì sai trái.

Tại các trại lao công ở Quan Trung, đa phần đều tập trung ở vùng lân cận dãy Tần Lĩnh.

Trong quá trình tổ chức các trại lao công, người ta thường chia nhỏ và trộn lẫn các nhóm lao động, bao gồm người Tiên Ti, Khương nhân, Để nhân, các bộ lạc khác và những tội phạm bị lao cải. Mục đích là tạo ra một hệ thống quản lý giám sát lẫn nhau, để không cho các lao công có cơ hội kết nối và gây rối. Đồng thời, trong số những lao công này, chủ yếu là từ Khương nhân và Để nhân, sẽ có những người tuân thủ tốt được chọn làm tiểu đội suất của các nhóm lao công.

Trong hệ thống xã hội với mối quan hệ thứ bậc nghiêm ngặt, quyền lực tuyệt đối giữa cấp trên và cấp dưới, cùng với những lợi ích phát sinh từ quyền lực đó, luôn là một sự cám dỗ đối với con người. Những tên tiểu đội suất trong trại lao công được cấp thêm chiếc nón rơm và roi trừng phạt, khiến chúng nhanh chóng quên mất rằng mình vốn là tù binh, thay vào đó, chúng bắt đầu hăng hái giám sát và thúc ép những kẻ mới vào làm việc.

Do nhu cầu xây dựng đường sá và các công trình đang rất cấp bách, nên phần lớn tù binh mới được phân công vào các trại sản xuất gạch.

Trong thời kỳ hiện đại, công trình xây dựng đã chuyển dần sang sử dụng bê tông cốt thép, nhưng ở thời Đại Hán, gạch nung vẫn là loại vật liệu xây dựng phổ biến và kinh tế nhất.

Quy trình sản xuất gạch ngói là vô cùng phức tạp. Trước tiên, phải khai thác đất sét thô không chứa chất hữu cơ, sau đó phơi khô, nghiền nát, rồi trộn với nước và nhào kỹ để trở thành đất sét chín. Sau đó, đất sét này được đúc thành khuôn gạch.

Gạch thô không thể ngay lập tức đem vào lò nung. Nếu độ ẩm còn quá nhiều, gạch sẽ nứt vỡ trong quá trình nung, vì vậy cần phải phơi khô trong bóng râm từ mười đến mười lăm ngày. Trong quá trình phơi khô, gạch không được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, không gặp gió mạnh, và càng không được để lạnh, nếu không gạch sẽ nứt vỡ. Sau khi phơi khô, gạch mới có thể đưa vào lò nung, và quá trình nung cũng phải được kiểm soát cẩn thận: nếu lửa quá lớn, gạch sẽ nứt; nếu lửa quá nhỏ, gạch sẽ không nung chín.

Quy trình nung gạch cổ truyền vốn rất phức tạp, nhưng kể từ khi Phỉ Tiềm phát triển một số kỹ thuật mới, những công đoạn này đã trở nên đơn giản và hiệu quả hơn.

Đầu tiên là sự ra đời của máy sản xuất gạch, giúp việc tạo ra khuôn gạch từ thủ công trở nên tiêu chuẩn hóa và dễ dàng hơn. Hiệu suất sản xuất không còn phụ thuộc vào tốc độ làm khuôn, mà là vào khả năng khai thác đất sét.

Tiếp theo, do lò đất nung truyền thống có hiệu suất thấp, các thợ thủ công dưới sự chỉ đạo của Phỉ Tiềm đã phát triển một loại lò gạch mới, có cấu trúc tương tự như lò quay hiện đại.

Cấu trúc tương tự này đã xuất hiện trong công nghệ luyện thép, với nguyên lý tiền gia nhiệt, phân lô và sản xuất liên tục. Dù so với những lò hiện đại như lò hầm vẫn còn kém xa, nhưng đối với Đại Hán thời bấy giờ, đây là một phát minh tiên tiến.

Lò gạch mới cho phép sản xuất liên tục, có thể vừa cho khuôn vào, vừa lấy gạch ra, và vệ sinh lò cùng một lúc, giúp tăng đáng kể hiệu suất sản xuất. Lò này bao gồm nhiều phòng lò nhỏ kết nối với nhau, được xây dựng theo hình tròn như bánh xe, với nhiều cửa lò xung quanh. Tất cả các ống khói đều thông với ống khói chính ở trung tâm, và nhiên liệu được thêm vào qua các lỗ trên nóc lò, giúp từng phòng lò có thể nung gạch theo từng đợt.

Dựa theo số lượng phòng lò, lò có thể có bốn, sáu hoặc tám phòng, và hiện tại người ta đang thử nghiệm lò có mười hai phòng.

Lò gạch này hoạt động qua bốn giai đoạn: sấy khô, tiền gia nhiệt, nung và làm nguội. Nếu phòng lò thứ nhất đang xuất gạch, thì phòng thứ tư đang được vệ sinh và sấy khô, phòng thứ ba đang tiền gia nhiệt và phòng thứ hai đang trong quá trình nung chính, cứ luân phiên như vậy.

Lò bốn phòng còn có một số khoảng nghỉ, nhưng khi lên tới lò sáu hoặc tám phòng, khoảng cách giữa các giai đoạn sẽ ngắn hơn nhiều. Nghe nói khi lò mười hai phòng được hoàn thành, việc sản xuất gạch sẽ diễn ra liên tục suốt mười hai canh giờ!

Sự tăng năng suất của lò gạch đòi hỏi số lượng gạch thô phơi khô phải tăng theo, và do thời gian phơi khô kéo dài, người ta đã thử nghiệm nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Gạch làm từ xỉ đã dần thay thế những viên gạch phải phơi khô trong mười ngày, trở thành nguyên liệu chính trong sản xuất gạch.

Ngoài kỹ thuật sản xuất gạch ngói, còn có những tiến bộ khác trong lĩnh vực xây dựng, chẳng hạn như xi măng đất.

Thời hậu thế, khi nhắc đến khái niệm về xi măng, đa số người chỉ cần một cuộc điện thoại là có thể giải quyết, cùng lắm là so đo chút về giá cả. Nhưng đối với người Hán thời cổ, toàn bộ khái niệm về xi măng đều bắt nguồn từ Phỉ Tiềm.

Tuy nhiên, Phỉ Tiềm cũng chẳng phải mang theo bên mình một hệ thống tiên tiến hay có cao nhân chỉ điểm. Hắn chỉ biết tên gọi của thứ gọi là "xi măng đất," nhưng cụ thể cách làm ra nó thì hắn cũng mù tịt. Chỉ có thể tận dụng khả năng chỉ đạo của mình, để các thợ thủ công không ngừng khám phá con đường mới.

Phiên bản đầu tiên của xi măng đất có chất lượng rất thấp. Dù đã cứng lại, nó vẫn dễ bị vỡ khi bị tác động mạnh, thậm chí trong vài trường hợp độ cứng của nó còn không bằng đất nện. Ưu điểm duy nhất của nó là nhanh khô và dễ tạo hình.

Sau nhiều lần thử nghiệm và không ngừng tìm kiếm nguyên liệu, một công thức mới đã ra đời. Xi măng đất này là sự kết hợp giữa xỉ sắt, đất sét và đá vôi, dần dần đã đáp ứng được một số nhu cầu nhất định.

Phỉ Tiềm cũng không rõ vì sao công thức này lại có thể tạo ra loại xi măng tương đối đạt yêu cầu. Có lẽ là do một số nguyên tố kim loại trong xỉ sắt chưa được luyện hết?

Cùng với sự phát triển của kỹ thuật luyện thép, việc chế tạo xi măng đất cũng tiến triển. Trong quá trình sản xuất, nguyên liệu phải được nghiền thành bột mịn.

Ban đầu, việc nghiền nguyên liệu được thực hiện bằng cối đá, với các bộ phận liên kết bằng gỗ. Tuy nhiên, gỗ không đủ bền và dễ gãy dưới lực tác động, thậm chí ngay cả sắt non cũng dễ bị gãy. Chỉ khi thay thế các bộ phận bằng thép và sử dụng ổ trục, sức cản của máy mới được giảm bớt, mở ra cơ hội cho quá trình cơ giới hóa nghiền nguyên liệu.

Thế nhưng, việc nạp liệu và sàng lọc vẫn phải thực hiện thủ công, vừa kém hiệu quả lại dễ gây bệnh phổi do hít phải bụi. Trong Bách Y Quán cũng đã có vài trường hợp mắc bệnh này. Dù các đại phu ở đó chưa rõ nguyên nhân cụ thể và không có phương pháp chữa trị hữu hiệu, nhưng Phỉ Tiềm biết rõ, đó là do môi trường làm việc khắc nghiệt. Nhất là ở những nơi đầy bụi bặm, khi phân phát khẩu trang, hắn phát hiện người dân không thèm dùng!

Những người nghèo khổ này giữ lại khẩu trang, hoặc thậm chí bán đi, vì khẩu trang được làm từ vải lanh tốt hoặc lụa mịn, dù chỉ là một miếng nhỏ nhưng cũng có thể bán lấy tiền.

Nói cách khác, họ biết mình sẽ mắc bệnh trong môi trường đó, nhưng vì gia cảnh túng quẫn, họ thà đánh đổi sức khỏe để kiếm thêm chút bạc nuôi gia đình.

Về sau, những công việc nặng nhọc và dễ mắc bệnh này được giao cho tù binh. Dẫu vậy, vấn đề vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn, bởi tù binh cũng là lực lượng lao động, và việc khai thác sức lao động của họ cũng mang lại giá trị thặng dư.

Vì thế, các thợ thủ công lại được giao nhiệm vụ mới: nghiên cứu một loại máy móc có thể gắn vào cối nghiền, sử dụng hệ thống bánh răng để truyền động, giống như quạt gió, dùng sức gió để sàng lọc nguyên liệu thô và mịn. Nguyên liệu mịn sẽ được thu gom, còn nguyên liệu thô sẽ được băng chuyền đưa trở lại miệng cối nghiền. Toàn bộ hệ thống nghiền sẽ được khép kín, chỉ để lại một cửa nạp và một cửa ra.

Tuy nhiên, cơ cấu này lại rất phức tạp. Đến nay, đã có một số đề xuất và mô hình thử nghiệm, nhưng trong quá trình vận hành thực tế, hệ thống thường bị tắc nghẽn. Vỏ ngoài khép kín cũng khiến việc xác định chỗ trục trặc trở nên khó khăn, nên vẫn đang trong quá trình cải tiến.

Về việc nghiên cứu máy hơi nước, thực ra Phỉ Tiềm cũng đã có suy nghĩ về nó. Tuy nhiên, việc biến ý tưởng thành hiện thực vẫn còn là một chặng đường rất xa.

Chủ yếu là trong đầu Phỉ Tiềm không hề có khái niệm rõ ràng về cấu trúc của máy hơi nước, chỉ biết đại khái rằng nó sử dụng hơi nước sôi để làm nguồn động lực. Việc tạo ra hơi nước từ đun sôi không khó, có thể dùng than đá hay thậm chí dầu mỏ để đốt. Nhưng để từ hơi nước thường chuyển sang hơi nước áp suất cao, rồi lại cần có xy lanh và piston, thêm cả việc phải tính toán đến vấn đề truyền động lực cũng như ngưng tụ khi hơi nước gặp lạnh, tất cả không phải chỉ vài chữ đơn giản là có thể chế tạo ra được.

Những tiến bộ về kỹ thuật như vậy đã thay đổi rất nhiều điều...

Thậm chí là cả cấu trúc xã hội.

Từ một góc độ nào đó, những tù binh và lao công trong các trại lao động, hay cả những người làm việc trong các xưởng mà Phỉ Tiềm thành lập, có thể coi là lứa vô sản đầu tiên của thời đại này. Và có lẽ, tên "tư bản" lớn nhất, độc ác nhất toàn thế giới, người đáng bị treo cổ lên đèn đường, không ai khác, chính là Phỉ Tiềm.

Mỗi khi Phỉ Tiềm nhận ra điều này, hắn chỉ có thể cười khổ. Bởi hiện tại hắn mang nhiều thân phận: một mặt là đại địa chủ thực sự, kiểm soát vùng đất từ Bắc Địa đến Quan Trung, thậm chí cả Hán Trung và Xuyên Thục. Hắn nắm trong tay rất nhiều ruộng đất, cửa hàng và bất động sản, với hàng loạt nông dân canh tác phụ thuộc vào hắn, sống dựa vào việc trồng trọt trên đất đai mà hắn sở hữu.

Mặt khác, Phỉ Tiềm còn là đại tư bản, sở hữu các xưởng đúc tiền, cửa tiệm ngân hàng, lò gạch, nhà máy xi măng, nhà máy dệt, xưởng giấy, xưởng in và vô số nhà máy, xí nghiệp khác. Hắn còn kiểm soát các mỏ vàng, bạc, đồng và than, bắt hàng ngàn tù binh lao động ngày đêm không ngừng nghỉ.

Không chỉ thế, Phỉ Tiềm còn là một đại quân phiệt...

Một chư hầu được phân phong lãnh thổ.

Một quyền thần đứng ở đỉnh cao quyền lực.

Chỉ một trong những thân phận này thôi cũng đã đủ khiến người ta phải kinh sợ.

Thế nhưng, kỳ lạ thay, trong lòng phần đông dân chúng, Phỉ Tiềm không những không phải kẻ xấu, mà ngược lại, hắn lại được coi là một đại ân nhân!

Ngay cả những gia đình nông dân bình thường cũng sẵn sàng đi làm thuê cho các xí nghiệp dưới quyền Phỉ Tiềm, kiếm chút tiền lẻ để cải thiện đời sống. Có thể nói, chính nhờ các ngành nghề mà Phỉ Tiềm phát triển, thu nhập của người lao động trong cả vùng đất Hán đã được nâng lên. Cùng một công việc, nhưng tiền công giờ đây cao hơn, khiến cho dân chúng có thêm thu nhập và tăng sức mua, từ đó thúc đẩy sự thịnh vượng và lưu thông hàng hóa trên thị trường dưới quyền Phỉ Tiềm.

Vì vậy, đến cuối cùng, chính Phỉ Tiềm cũng khó lòng xác định rõ vị trí của mình...

Là thiện, hay là ác...

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
xuongxuong
26 Tháng năm, 2020 06:56
Dân Nha Trang ăn chơi ghê vậy? Ăn nhậu t2, t3, t4 à? :V
Nhu Phong
25 Tháng năm, 2020 23:20
Dạo này con gái đầu đi học chữ vào các buổi thứ 2,3,4 trong tuần nên các bạn cứ ăn nhậu thoải mái. Mấy ngày đấy mình bận nên không convert truyện được đâu. Ahihi.
quanghk79
25 Tháng năm, 2020 01:19
1 tướng công thành vạn cốt khô mà. truyện tranh bá chứ đâu phải truyện về thánh nhân đâu.
xuongxuong
24 Tháng năm, 2020 08:50
Hồi sơ khởi, c345 346, Tiềm vì phải lấy được lúa gạo mà cho lập kế giết không ít binh sĩ vô tội, dưới tay gặp Lư Thường dụ Cổ Cù giết cả nhà Trương Gia. Haizz, đại nghiệp cũng là đại nghiệp.
xuongxuong
24 Tháng năm, 2020 08:19
Đợi con Tiềm đánh xuống được FC cũng ngót 10 năm :3
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 20:54
Lưu Độ nắm Linh Lăng, cũng coi như là 1 quận lớn ở Hồ Nam. Lưu Phạm ban đầu xuôi nam tiếp nhận GC để liên kết với Thục Trung cát cứ Tây, Nam đế quốc nhưng không thành do bị thế lực địa phương là Sĩ gia nắm hết cơ sở nên chỉ là chức suông, bù nhìn. Sau đó LP chạy qua Lưu Độ mượn quân đánh úp GC, nhưng mà lạc đường + vườn không nhà trốn nên cứ loay hoay trong rừng dưới sự giám sát của Sĩ Tiếp. Sau này Hứa Tĩnh qua đầu quân GC nên Sĩ Tiếp giao cho 1 cái đầu danh trạng là: xúi Lưu Phạm nhảy hố Nam Trung, các nhà đánh phó bản, mỗ chơi nông trại vui vẻ. :v
quangtri1255
23 Tháng năm, 2020 16:34
c1770 nhờ mấy bác tóm tắt tình hình Giao Châu cái. Lưu Phạm Lưu Độ Sĩ Nhiếp ntn với. Lưu Độ ở chỗ nào, có nắm thực quyền không? Lưu Phạm ở chỗ nào.... Sĩ Tiếp vẫn giữ thực quyền hay lùi lại sau màn thao túng?
Huy Quốc
23 Tháng năm, 2020 01:48
Mà tác giả chuyện này viết đúng chứ đâu thêm bớt gì quá đâu, rõ ràng thời tam quốc thì vn cũng chỉ coi như là 1 dạng dân tộc nhỏ như ng khương hay hung nô thôi, vs lại tác giả là ng trung mà, dù muốn hay ko thì vẫn phải thiên về phía nước của họ, đọc truyện chủ yếu là hiểu thêm về thời tam quốc thôi nên mọi người hãy bình tĩnh vs thoải mái mà đọc, đừng vì thấy nhắc tới giao chỉ này nọ rồi lại drop truyện, trừ khi nào mà tác giả đặt điều phi logic quá thôi
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:20
thực ra là có tộc Hoa đó bạn. Dân đi tàu xuôi từ Lưỡng Quảng xuống NTB vs NB khai hoang
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:18
nhắc tới GC nhưng thật ra cũng chưa động gì nhiều, chủ yếu là lập trường chính trị vs lập phó bản tập trung ở Nam Trung. Thực tế là con Phí Tiền cũng nói: gân gà, rảnh ruồi như Trư ca mới 7 bắt 7 thả, Thục Trung cũng chỉ là cái kho lương, diệt hết chuột lang thì lòi ra chuột cống, nên cũng chỉ có thể tìm cách trấn áp bằng tin giả, sau đó dùng người địa phương trị người đụa phương. Mấy chương trước thì con tác mặc định Sĩ Tiếp là người địa phương của GC rồi, mặc dù quê gốc là ở chỗ khác :v
xuongxuong
22 Tháng năm, 2020 21:05
Mình thấy bình thường, như mình hay nhóm tác giả quyển Cơ sở Văn hóa VN hay bảo lưỡng quảng là của VN vậy. Con tác là dân Trung thì Lập trường phải rõ ràng nếu không thì truyện nó drop từ tận bên TQ, xứ nó kiểm duyệt kỹ thôi rồi. Ấy thế mà con tác cũng cà khịa Thái Tổ, Hoàng Đế cả nùi. Với lập trường con tác với Mông Cổ cũng không tệ, binh bại nhưng phong cách. Nên mình nghĩ cứ theo dõi, khi nào dối trá hay mạt sát thì droo.
Nguyễn Đức Kiên
22 Tháng năm, 2020 19:03
nói nhân chủng thì hơi xa. vấn đề là thái độ chính trị chứ ko phải nhân chủng hay dân tộc văn hoá gì. như trong truyện nói thì dù hồ dù khương nói tiếng hán dùng hán lễ thì cũng là người hán. tình hình lịch sử thời điểm đó đúng là chúng ta là thuộc hán, văn hoá chúng ta bị ảnh hưởng bởi văn hoá trung quốc. cái này ko có gì bàn cãi cũng không có gì phải xấu hổ vì dù thế chúng ta vẫn giữ được độc lập tự do, phát triển ra văn hoá của chúng ta. học tập tiến bộ mới phát triển tồn tại được còn bo bo giữ cái cũ cổ hủ thì bị đào thải là điều tất nhiên. còn người hán hay người kinh thì cái này là vấn đề tư tưởng chính trị là chính. ví dụ như quang trung nếu thực sự yêu sách được 2 tỉnh quảng đông quảng tây từ chính quyền mãn thanh thì chúng ta có lẽ bây giờ khối đại đoàn kết toàn dân có thêm dân tộc hán.
Hieu Le
22 Tháng năm, 2020 17:07
từ vụ LB đánh tây vực là ta nghi nghi sẽ tới Giao Chỉ rồi. chuyện này ko khéo sợ bị drop quá.
chipchipne
22 Tháng năm, 2020 10:54
truyện hay hi vọng con tác ko bị bệnh mãn kinh mà drop :(
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 10:24
@jerry: đang nói tình hình lịch sử lúc đó thì Giao Châu bao gồm từ Quảng Tây trở xuống hết đồng bằng sông Hồng (gọi tên theo bây giờ cho nôm na dễ hiểu). Đất Đông Lào lúc đó rất rộng nhưng thưa dân, đa số là rừng núi nên bị coi là man hoang. Thêm nữa, cái Hải Nam lúc đó là chưa có đảo Hải Nam. Còn về nhân chủng thì biết Đông lào là Mongoloites đi cho đỡ nhức đầu, chứ tính vs Negroloites thì còn cao và xa lắm :v vậy đi cho mấy bạn khát nước bên kia có cùng nhân chủng để dễ lập bản xứ :)))))
jerry13774
22 Tháng năm, 2020 09:50
từ thời Triệu Đà đã có chữ viết là chữ nòng nọc theo ảnh hưởng của nền văn hóa ấn độ, dân việt lúc đó đã có nguồn gốc giống với dân nam á, sau ngàn năm bắc thuộc đã hủy diệt nền văn hóa bản địa ban đầu và ngày nay được xây dựng lại bị ảnh hưởng nặng nề của nho giáo
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 08:28
lầu trên, chữ Nôm đúng thực tế cũng là mô phỏng theo chữ Hán, nó nói là nó khai sáng văn minh cho mình cũng không có gì sai, vì trước khi bị Triệu Đà xâm lược thì tộc Đông Lào cũng là hổ báo nhưng ở cấp mẫu giáo, thứ nhất là lập quốc từ nhiều bộ tộc, thứ hai là dân số không đông, thứ ba là chưa chính thức có cái gọi là văn tự để truyền thừa thực tế. Thực tế là từ văn hoá Đông Sơn đến tận Cổ Loa, chưa tìm được văn tự gốc của dân tộc, mà chỉ là các hình vẽ trên hang đá, trống đồng, các di chỉ,... Một điều nữa là: kể cả Hàn Quốc, Nhật Bản lẫn Bắc Triều Tiên đều dùng bộ ký tự biến thể từ Hán Ngữ, đặc biệt là có khi xài song song như là quốc ngữ dùng trong học tập và làm việc. VN thì hên hơn là triều hậu Lê lẫn Trịnh Nguyễn hùng mạnh nên vừa mất đất, xém tý mất tính ngưỡng, còn bộ chữ viết thì phải đổi để dễ đồng bộ, đồng hoá vs mẫu quốc :))))
huydeptrai9798
22 Tháng năm, 2020 02:54
Vẫn là giọng văn thiên triều tiêu biểu :))) đến cả chữ nôm cũng vơ vào của nó thì chịu rồi
Nhu Phong
21 Tháng năm, 2020 20:08
Chương tiếp theo có nhắc đến Giao Chỉ - Việt Nam. Tuy nhiên các vấn đề nhắc đến đều có trong lịch sử.....Mình sẽ tiếp tục convert và cân nhắc thái độ, quan điểm của tác giả khi nhắc đến Việt Nam.... Thân ái ----------------------------------------- Sĩ Tiếp làm dân chính quan tới nói, cũng coi là không tệ, chí ít tại Trung Nguyên đại loạn đoạn thời gian này bên trong, không chỉ có ổn định Giao Châu địa khu, còn cùng xung quanh dân tộc thiểu số ở chung hòa thuận, thậm chí còn tại Giao Châu phát triển Nho học. Bất quá cùng Phiêu Kỵ Tướng Quân Phỉ Tiềm không giống chính là, Sĩ Tiếp còn không có tiến thêm một bước đến giáo hóa trình độ, chỉ là " Sơ khai học, giáo thủ trung hạ kinh truyện", bất quá liền xem như như thế, cũng ảnh hưởng tới một nhóm Giao Chỉ địa khu dân chúng bắt đầu thông thi thư, biết lễ nghi. Thậm chí ảnh hưởng đến hậu thế, Việt Nam đang phát triển trong quá trình, từng sinh ra một loại văn tự, gọi là chữ Nôm. Có người cho rằng loại này chữ Nôm liền là Sĩ Tiếp thổ sáng tạo, vì để cho Giao Chỉ người tốt hơn học tập Hoa Hạ kinh truyện. Đến mức hậu thế tại 《 Đại Việt sử ký toàn thư 》 còn đem Sĩ Tiếp nhậm chức thời kỳ này làm một cái kỷ niên đến ghi chép, xưng là "Sĩ Vương Kỉ" . Văn hóa truyền bá khiến cho Giao Chỉ địa khu bắt đầu chậm rãi đi vào văn hóa thời đại, chậm rãi thoát khỏi nguyên lai dã man lạc hậu cách sống. Từ góc độ này tới nói, Sĩ Tiếp tại Giao Chỉ địa khu địa vị, có thể thấy được lốm đốm. ------------------------------------------------
tuan173
21 Tháng năm, 2020 15:38
Tiếp theo ý của bạn trieuvan84, theo thuyết di truyền quần thể, một cặp vợ chồng cần có hai người con trưởng thành tới tuổi sinh sản để đảm bảo sự giống còn của giống loài. Cộng thêm điều kiện sinh sản khó khăn thời xưa. Nếu tính số trung bình, người vợ cần sinh sản 5,6 người con, may ra mới đảm bảo con số 2 nêu trên. Cộng thêm tuổi thọ trung bình thời xưa vốn rất thấp, thành ra cả đời người phụ nữ chỉ có khi tập trung cho việc sinh sản. Nên việc săn bắn, hái lượm, bảo vệ lãnh thổ thì dần phụ thuộc vô giống đực. Nên cán cân quyền lực bị dịch chuyển về phía giống đực thôi. Mình vừa trình bày một thuyết thôi nha, các bạn đọc để có thêm suy nghĩ. Điều này còn cần được kiểm chứng.
trieuvan84
21 Tháng năm, 2020 10:06
thêm cái nữa phụ nữ khi có mang thì... ai có rồi tự hiểu, rồi khi tới tuổi mãn kinh thì.. haha mà đúng nhiều chức quan đôi khi nam làm không tinh tế bằng nữ, thí dụ như lễ quan hay dịch quản, thư quản
Trần Thiện
20 Tháng năm, 2020 23:04
Thật ra cái vụ từ mẫu hệ sang phụ hệ thì nguyên nhân chính là giống đực có tính chiếm hữu mạnh, bạo lực max cấp. Trong khi giống cái ngược lại thôi. Con tác giải thik lằng nhằng vãi nồi
Nguyễn Đức Kiên
20 Tháng năm, 2020 18:44
tào tháo cho người (ko nhớ ai) mang bảo kiếm đến tận nơi. ko nghe lệnh rút cướp quân quyền mà mang về rồi mà. lấy đâu ra quân mà đánh.
quanghk79
20 Tháng năm, 2020 16:21
Hạ Hầu Uyên là danh tướng, nóng tính nhưng ko phải dạng bất chấp tất cả. Có thể cãi lệnh nhưng sẽ ko nướng quân đâu.
Huy Quốc
20 Tháng năm, 2020 14:17
Bên tào huỷ nhưng hạ hầu uyên cãi lệnh mà, k biết tào nhân có chạy theo cản ko, chứ lần gần nhất là hạ hầu uyên đuổi tk đưa tin về rồi tiến quân đánh thì phải
BÌNH LUẬN FACEBOOK