Mục lục
Quỷ Tam Quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Tây Vực, từ Hán đại, đã trở thành bước đi đầu tiên của Hoa Hạ trong nỗ lực mở rộng ra ngoài.

Xét cho cùng, con đường tơ lụa này khá phù hợp với trình độ phát triển sản xuất của Đại Hán lúc bấy giờ.

Kỹ thuật hàng hải phải đạt đến một mức độ nhất định mới có thể thông suốt ra Đông Hải và Nam Cương. Tuyết vực tuy có thể đi qua bằng đường bộ, nhưng so với Tây Vực, con đường ấy thật quá hiểm trở. Dù đến đời sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng đi qua lại, có khi chưa đến nửa đường đã gặp chứng phản ứng độ cao mà bỏ mạng…

Do vậy, bước tiến Tây Vực thật sự vô cùng quan trọng.

Trước đây, Đại Hán khai thác Tây Vực không phải nhằm mở rộng lãnh thổ, mà để đối phó Hung Nô. Chính vì sai lầm này, khi Hung Nô suy yếu, Tây Vực cũng theo đó mà nhanh chóng mất đi tầm quan trọng. Sau đó, Hàn Dũ lại cho rằng Hoa Hạ “địa đại vật bá” (đất rộng của nhiều).

Ừm, tiên sinh Lỗ Tấn cũng từng nói điều tương tự, “địa đại vật bá.”

Rõ ràng, Hàn Dũ và Lỗ Tấn không phải kẻ xấu, nói Hoa Hạ đất rộng của nhiều cũng không sai. Nhưng vấn đề là có kẻ lợi dụng câu nói ấy để tô vẽ thêm, có kẻ cắt ghép, người không muốn thấy người khác khá hơn mình, chẳng khác gì đám tư bản thấy người bình thường kiếm thêm được một đồng mà đau đớn hơn cả mất đi ngàn vạn.

Thực tế, Hoa Hạ lại là một vùng đất nghèo nàn.

Nhìn lại lịch sử, so với những quốc gia có diện tích lớn khác, Hoa Hạ thật sự không có nhiều lợi thế.

Xứ Mỹ có nhiều than, nhiều khí, dầu mỏ cũng không thiếu, còn có cả dầu đá phiến. Địa hình bằng phẳng, thích hợp cho nông nghiệp.

Úc Đại Lợi nhiều sắt, nhiều khí, nhiều than. Khí hậu cực kỳ thích hợp cho chăn nuôi và nuôi trồng hải sản.

Đại Hùng Nga nhiều gỗ, nhiều dầu, nhiều khí, nhiều than.

Rồi nhìn lại Hoa Hạ, thiếu dầu, thiếu khí, thiếu than, đặc biệt thiếu than chất lượng cao, thiếu cả sắt và sắt chất lượng tốt. Đồng, bạc, vàng đều thiếu. Diện tích đất canh tác ít, địa hình đồi núi khiến việc cơ giới hóa nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Láng giềng xung quanh hơn hai mươi nước, phần lớn không phải những kẻ yên bình, từ thời cổ đại đã đánh nhau không ngừng, thù mới hận cũ không ít!

Với hoàn cảnh như thế, sao còn có thể mơ mộng tự mãn được?

Vì vậy, đối với Phỉ Tiềm, Tây Vực phải được mở ra!

Để cho Hoa Hạ đời sau có không gian rộng lớn hơn, bước này không thể không đi.

Nếu Trương Liêu chưa ra tay giết người ở Tây Vực, có lẽ hắn sẽ là một lựa chọn tốt cho chức Đô hộ Tây Vực.

Trương Liêu thận trọng, dũng cảm mà mưu trí, có thể nói là văn võ toàn tài, đủ để đảm đương trọng trách lớn.

Chỉ tiếc rằng Trương Liêu đã động thủ. Dù trong tình cảnh lúc đó, hắn có lý do chính đáng để hành động, nhưng đây không phải là cách thông thường.

Do đó, Thái Sử Từ giờ trở thành ứng cử viên chính.

Phải, ứng cử viên, nhưng không phải là duy nhất…

Nếu cần, Phỉ Tiềm có thể điều Giả Hủ tới, nhưng kẻ này thường thích chơi trò tâm lý, e rằng sẽ biến người Tây Vực thành trò đùa sống dở chết dở. Điều này sẽ có những tác động tiêu cực đến sự phục hồi nhanh chóng và phát triển của Tây Vực trong tương lai.

Bởi lẽ, có thể nhất thời không ai nhận ra, nhưng chẳng phải cả đời đều không thể nhận ra. Khi phương tiện trở thành mục đích, cuối cùng vẫn sẽ bị phản ngược mà thôi.

Phương cách của thời kỳ đặc biệt không phù hợp cho mọi hoàn cảnh.

Phỉ Tiềm cần một cách tiếp cận “phổ quát,” chứ không phải những hành động mang tính ứng phó tạm thời trong lúc nguy cấp.

Một thể chế chính trị muốn vững bền, ắt phải có sự phối hợp giữa văn và võ, giống như hai tay của một người. Nếu cứ lúc nào cũng lấy đao mà cắt bên này, chém bên kia, tuy có thể xử lý được vết thương và loại bỏ thịt thối, nhưng tại sao không chữa trị từ khi bệnh mới phát? Nếu đã có cách điều trị chính xác, cớ gì phải chặt tay, cưa chân?

Bệnh tật này, thậm chí còn kéo dài đến cả hậu thế.

Bước đi mà Phỉ Tiềm muốn thực hiện lúc này chính là bước đi mới cho Hoa Hạ. Tuy khó khăn, nhưng không thể không đi.

Thái Sử Từ cũng hiểu rằng mình phải theo bước Phỉ Tiềm, nhưng làm sao để hiểu rõ ý đồ của Phỉ Tiềm và thực hiện nó một cách chính xác, đó không chỉ đơn giản là câu nói “ta làm được” là có thể qua chuyện. Y cần phải chứng minh năng lực của mình trước mặt Phỉ Tiềm.

Thái Sử Từ nghĩ rằng Phỉ Tiềm chắc chắn không muốn đi con đường mà chính sự chỉ tồn tại khi người đứng đầu còn sống, rồi khi người đi thì chính sự cũng suy tàn theo. Chính vì thế mà Phỉ Tiềm rất cẩn trọng trong việc xử lý Lữ Bố. Do đó, Thái Sử Từ trong việc đối phó với Tây Vực cũng cần phải thận trọng, không thể tùy tiện mà “đốt lửa” ngay lập tức.

Nhưng cũng không thể không làm gì…

Như người xưa vẫn nói: “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa.”

Dường như ai cũng biết rằng việc làm như vậy không tốt, ai cũng hiểu rằng để thận trọng thì đừng vội vàng thể hiện khả năng của mình chỉ để đốt ba đống lửa mà phô trương thanh thế. Thường thì vì không nắm rõ tình hình, kết quả lại thất bại.

Lý thuyết lớn, ai cũng hiểu.

Nhưng nhiều khi, khi đã ngồi lên ghế, thì lại không thể kiềm chế được mà muốn “đốt” thử.

Nếu cứ mãi không hành động, thì người trên sẽ hỏi: “Này, tiểu nhân, ngươi xuống đó đã lâu, đã làm được gì rồi?”

Người dưới cũng sẽ hỏi: “Lão già này đang toan tính âm mưu gì đây, sao còn chưa ra tay?”

Rồi khi đốt, trừ kẻ bị đốt ra, mọi người đều cảm thấy thoải mái.

Thật thú vị, câu thành ngữ “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” xuất phát từ đâu? Nguyên bản của nó thực ra là ba đám lửa của Gia Cát Lượng sau khi xuất sơn: trận Bác Vọng Phố, trận Tân Dã và trận Xích Bích.

Nhưng vấn đề là, ba đám lửa này là do La Quán Trung hư cấu ra…

Chúng thuộc về diễn nghĩa.

Trong lịch sử thực, ba đám lửa này không hẳn liên quan nhiều đến Gia Cát Lượng.

Trận Bác Vọng Phố, do Lưu Bị đích thân chỉ huy, mà thậm chí Lưu Bị không phải đốt quân địch, mà là tự đốt doanh trại của mình. Khi đó hai bên đối đầu lâu ngày ở Bác Vọng, Lưu Bị bất ngờ chuyển biến chiến lược, tự đốt trại mình rồi giả vờ rút lui. Hạ Hầu Đôn ra lệnh truy kích, phó tướng Lý Điển can ngăn, cho rằng đối phương có thể phục binh trong đám cỏ, nhưng Hạ Hầu Đôn không nghe.

“Khi Đôn cùng tiến công, gặp phải phục binh, bị đánh bại. Điển đến cứu, Lưu Bị thấy cứu viện tới, liền rút lui.” Nếu khi đó quân Lưu Bị không quá yếu, có khi đã phản công ngược đến tận thành Trường Xã!

Trận Bác Vọng Phố là một ví dụ kinh điển do Lưu Bị trực tiếp chỉ huy. Có vẻ như chỉ cần không phải là Tào Tháo đích thân dẫn quân, Lưu Bị hầu như luôn có thể đánh bại bất kỳ tướng nào dưới trướng Tào Tháo…

Nhưng khi Tào Tháo đến, Lưu Bị không còn cách nào khác, phải rút lui.

Vậy nên, trận lửa Tân Dã thực ra không hề tồn tại.

Còn trận lửa Xích Bích…

Cũng chỉ là vậy thôi.

Vì vậy, cái gọi là “ba đám lửa” chỉ là sự “đội mũ nhầm”, một đám “không hề có”, và một đám “đổi quả lấy trái”.

“Soga…” Người hiểu chuyện gật đầu liên tục, tỏ ra đã hiểu.

Còn trong hậu thế, câu “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” thực ra chủ yếu là ám chỉ đến ba thứ: nhân, tài, vật.

Bởi lẽ nhân, tài, vật của một đơn vị chính là mạch sống của đơn vị ấy. Cho nên, khi một vị lãnh đạo mới nhậm chức, việc đầu tiên chính là thay thế chánh văn phòng. Chánh văn phòng thường là thân tín của lãnh đạo, không chỉ lo chu toàn công việc mà còn xử lý những việc mà lãnh đạo không tiện ra mặt. Đồng thời, chánh văn phòng có vai trò điều phối tổng hợp, cần phải chọn một người mới, người mà lãnh đạo tin cậy.

Tiếp theo, chính là bộ phận tài chính. Dù là một đơn vị hay một gia đình, từ xưa đến nay, ai quản tiền người đó có uy. Tài chính của một đơn vị cần phải được quản lý bởi người mà lãnh đạo tin tưởng, bởi nếu không, chỉ cần vài chiêu trò nhỏ cũng đủ khiến lãnh đạo gặp khó khăn. Rồi sau đó là nhân sự, xem xét sự đoàn kết của đơn vị. Bắt đầu từ phòng nhân sự, kế đến là thay đổi các lãnh đạo cấp trung.

Khi đã thay đổi hết nhân, tài, vật, lúc đó lãnh đạo mới thực sự nắm chắc quyền hành của đơn vị.

Nhưng điều này thực sự cần thiết sao?

Nhiều người cho rằng, sau khi một lãnh đạo tiền nhiệm đã đi qua, thì người trong đơn vị hầu như đều là thuộc hạ của vị đó, nên khi một lãnh đạo mới nhậm chức, công việc khó có thể thuận lợi. Vì thế, việc “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” là điều không thể tránh khỏi và cần phải làm. Còn những việc khác, như thay đổi một số quy chế, cải thiện môi trường làm việc, treo vài băng rôn, khẩu hiệu, tất cả chỉ là để tạo nền cho ba đống lửa ấy.

Nhưng vấn đề là, đôi khi điều này có thể cần thiết, nhưng phần lớn những lúc đó, mọi việc lại bị phóng đại quá mức.

Phỉ Tiềm không muốn Tây Vực trở thành ví dụ đầu tiên bị “phóng đại” dưới tay mình.

Đối với Thái Sử Từ, y phải có hành động, nhưng không thể hành động tùy tiện. Là người kế nhiệm, y cần phải hiểu rõ con đường và phương hướng để tránh đi lệch đường.

Phỉ Tiềm hỏi Thái Sử Từ về chuyện của Lữ Bố và Tây Vực, thoạt nhìn như hỏi về Lữ Bố, nhưng thực ra là đang hỏi về cả chính sự của Tây Vực!

“Thần… ngu độn,” Thái Sử Từ cho rằng để Phỉ Tiềm tự quyết định vẫn tốt hơn, bèn thưa rằng: “Thần nhất thời chưa rõ, chỉ xin chủ công ban lệnh, thần nhất định tuân theo.”

Lời này nghe có vẻ hợp lý?

Đúng và khôn khéo?

Đây chính là chỗ mà Thái Sử Từ hơn hẳn Lữ Bố.

Nhưng cũng chính là nơi mà Thái Sử Từ chưa đủ khôn ngoan…

Vì thế, Phỉ Tiềm quyết định cho Thái Sử Từ một bài học nhớ đời.

Phỉ Tiềm cười nhẹ, giơ hai ngón tay, nói: “Nếu vậy, ta nghĩ rằng, việc Lữ Phụng Tiên ở Tây Vực, nên đối sự không đối người, nhưng cũng phải đối người không đối sự.”

Thái Sử Từ rõ ràng ngơ ngác, một lúc sau mới cúi đầu lạy, nói: “Xin chủ công chỉ điểm!”

Phỉ Tiềm khẽ gật đầu, đáp: “Điền Bá Định yêu người hiền mà giữ vững quân chủ, Bạch Công yêu người hiền mà làm loạn Kinh Châu. Yêu người hiền thì giống nhau, nhưng cách hành động thì khác. Công Tôn Hữu tự cắt chân mà tôn vinh Bách Lý Hề, còn Sửu Điêu tự hoạn mình mà nịnh bợ Hoàn Công. Hành động tự hại thì giống nhau, nhưng mục đích thì khác. Huệ Tử nói, ‘Kẻ điên chạy về hướng đông, kẻ đuổi theo cũng chạy về hướng đông. Họ đều đi về hướng đông, nhưng lý do đi về hướng đông lại khác nhau. Bởi thế mới nói, không thể không xem xét kỹ lưỡng người làm cùng việc.’ Tử Nghĩa hiểu rõ lẽ này chăng?”

Thái Sử Từ phần nào hiểu, nhưng cũng phần nào chưa rõ. Y suy nghĩ rất lâu, rồi dò hỏi: “Lời của Hàn Phi Tử có vẻ như bỏ qua sự việc mà coi trọng con người, nhưng ai biết được hướng đông này là hướng đông nào? Nếu nhìn theo sự việc, thì giống nhau, nhưng nếu nhìn theo con người, thì lại khác. Vậy điều này phải giải thích ra sao? Xin chủ công chỉ giáo thêm.”

Lời của Hàn Phi Tử thực ra muốn nói rằng nên chú trọng con người hơn là chỉ nhìn vào sự việc, bởi như Hàn Phi Tử từng nói, có thể một kẻ điên chạy về hướng đông, rồi một đám người cũng chạy theo hướng đông. Việc họ làm có vẻ giống nhau, nhưng người thì khác nhau. Thế nhưng, nếu nói như vậy chẳng phải sẽ mâu thuẫn với lời của Phỉ Tiềm trước đó rằng “đối sự không đối người” hay sao?

Phỉ Tiềm mỉm cười, “Việc là do con người mà thành. Như ta đã nói ngày hôm qua, con người nên tranh với trời, tranh với đất, tranh với người khác. Kẻ tranh ắt có điều cần làm, cũng có điều không thể làm. Đây chính là việc thành bởi con người… Thứ nhất, cần có tâm thế của kẻ làm nên đại sự, không vì gian nan mà sợ hãi. Thứ hai, cần có tâm trí tường tận, quan sát sự việc để thấu hiểu con người.”

Thái Sử Từ gật đầu đáp: “Quả đúng như vậy! Lúc ban đầu chưa hiểu người, ắt nên xem xét sự việc! Do đó có câu, đối sự không đối người. Khi đã hiểu rõ người, ắt nên xét đến người trước! Lúc ấy mới có thể nói, đối người không đối sự…”

Phỉ Tiềm gật đầu, “Tử Nghĩa đã hiểu được một phần.”

Thái Sử Từ sững sờ, hỏi: “Ý của chủ công là… vẫn còn điều gì chưa nói ra sao?”

Phỉ Tiềm khẽ gật đầu.

Thái Sử Từ cau mày, đăm chiêu suy nghĩ.

Thực ra trong truyền thống tư tưởng của Trung Hoa, người ta thường nghe thấy hai khái niệm dường như đối lập nhau: “đối sự không đối người” và “đối người không đối sự.”

Những người ủng hộ quan điểm “đối sự không đối người” cho rằng, yếu tố khách quan mới thực sự thể hiện sự công bằng, không thiên vị. Còn những người ủng hộ “đối người không đối sự” lại cho rằng, bản chất và khả năng của con người mới là yếu tố quyết định kết quả của sự việc.

Có người khi còn trẻ thì cho rằng “đối sự không đối người” là chân lý tối thượng, nhưng khi tuổi già, kinh nghiệm dày dặn hơn, lại quay sang nghĩ rằng “đối người không đối sự” mới là đúng đắn. Dĩ nhiên, cũng có người ngược lại, khi còn trẻ chỉ thích nhìn mặt đẹp trai, mỹ nữ, bất kể họ làm gì cũng đều đúng, ngay cả khi đánh rắm cũng thơm. Nhưng khi già đi, họ mới nhận ra rằng, ngay cả người đẹp cũng phải đi vệ sinh, và… vệ sinh của ai cũng có mùi.

Vì thế, dù là “đối sự không đối người” hay “đối người không đối sự,” cả hai đều là những cách suy nghĩ tập trung, theo lối giản lược.

Thế giới bao la, sự việc rối ren, lòng người phức tạp, nên ai cũng mong muốn có một phương pháp đơn giản, một khuôn mẫu chung để áp dụng vào mọi thứ một cách dễ dàng. Nhưng rõ ràng, điều đó không thể thực hiện được, và đây chính là điều mà Phỉ Tiềm muốn Thái Sử Từ hiểu khi cai trị Tây Vực.

Càng muốn đơn giản hóa, mô hình hóa, lại càng nhận ra Tây Vực không phải là nơi dễ dàng, không thể dùng khuôn mẫu chung để áp dụng.

Nhà Hán đã áp dụng chế độ quận huyện hơn ba, bốn trăm năm nay…

Chế độ quận huyện chính là một mô hình quản lý địa phương đơn giản.

Nhưng nếu áp dụng nó vào Tây Vực, liệu có thực sự hiệu quả?

Dĩ nhiên, nếu áp dụng mô hình này, có thể sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức và lo toan.

Giống như Thái Sử Từ “không hiểu thì hỏi,” rồi bày tỏ mong muốn để Phỉ Tiềm “càn khôn độc đoán.”

Nhưng một khi mọi chuyện bị tuyệt đối hóa, sẽ dẫn đến sai lầm.

Việc tuyệt đối hóa “đối sự không đối người” thực chất là một dạng cực đoan của chủ nghĩa hiện thực, bởi bề ngoài tuy đề cao sự công bằng khách quan, nhưng thực tế lại hướng đến một thứ cơ hội chủ nghĩa ngắn hạn. Bất kể là người tốt hay xấu, chỉ cần xem xét việc họ làm có phù hợp hay không, tương tự như việc chỉ nhìn vào lợi ích ngắn hạn trong sự việc đó. Nếu phù hợp, nếu lợi ích tương thích, thì họ sẽ trở thành đồng minh, cùng nhau tiến bước trong một chặng đường.

Việc khiến mỗi người dù bề ngoài làm cùng một sự việc, nhưng bởi vì người thực hiện và lý do thúc đẩy sự việc lại khác nhau, kết quả về sau cũng sẽ chẳng giống nhau. Có thể cùng nhau đi một đoạn đường thì cứ đi, nhưng đi được bao xa còn tùy thuộc vào việc khi sự việc tiếp theo đến, liệu đôi bên có còn chung quan điểm và tương đồng lợi ích hay không. Con đường trước đây dẫu có tốt đẹp đến mấy, tới ngã rẽ kế tiếp vẫn có thể đâm sau lưng nhau. Mọi chuyện đều dựa trên lợi ích mà tính toán, không có thù hận cá nhân, ai cũng có thể hợp tác rồi tan rã bất cứ lúc nào, chẳng ai phải suy nghĩ sâu xa.

So với điều này, việc “đối người không đối sự” không hẳn là một chiến lược, mà là một nguyện vọng.

Một nguyện vọng mà thực chất rất khó thực hiện.

Nếu tuyệt đối hóa nó, chắc chắn sẽ gây ra đại họa.

Nguyện vọng mong muốn thành công nhờ người, thực chất là đặt niềm tin rằng, dưới hàng loạt quan điểm khác nhau và lợi ích chồng chéo, con người vẫn giữ được bản chất của mình, và người đó đáng tin hơn những quan điểm hay lợi ích kia. Nguyện vọng này hướng về con người, cho rằng quan điểm có thể tạm thời mờ mịt, lợi ích có thể tạm thời chia rẽ, nhưng cuối cùng người đó vẫn là người đáng tin cậy, và sự việc do họ làm cũng có thể tin tưởng.

Nhưng điều đó có thể sao?

“Đối sự không đối người” khó ở chỗ nắm bắt sự việc.

Nếu sự việc không rõ, không minh bạch, không biết đúng sai, thì dù là chuyện lớn hay nhỏ, cuối cùng cũng trở thành ác chính.

“Đối người không đối sự” khó ở chỗ nhìn người.

Ai có thể dám chắc rằng mình luôn nhìn đúng người?

Dẫu một lúc nào đó có thể nhìn đúng một người, nhưng theo thời gian, sự việc thay đổi, con người cũng đổi thay. Lúc ấy, người thay đổi liệu còn là người trước kia không?

Khả năng nhận định một người thường thể hiện qua lý lịch, nhưng những điều không có trong lý lịch thì chỉ có thể kiểm nghiệm qua công việc. Nhưng để đánh giá một con người thực sự thế nào, không có phương pháp nào là hoàn toàn đáng tin.

Thái Sử Từ càng nghĩ càng thấy đau đầu, trước khi nói chuyện với Phỉ Tiềm, hắn vẫn nghĩ rằng mình đủ thông minh. Nhưng không ngờ càng nói chuyện, đầu óc hắn càng rối tung. Giờ đây, hắn cảm giác như trong đầu là một mớ tơ vò, càng suy nghĩ càng thấy bế tắc, có cảm nhận nhưng không thể nắm được đầu mối.

Phỉ Tiềm cười nói: “Làm sao có sáu hương và sáu trục? Văn nhân thì sao, võ nhân thì thế nào? Tử Nghĩa, không nên câu nệ. Nếu xét sự việc mà xét người, thì dễ mắc sai lầm vì cảm tình yêu ghét. Nếu xét người mà xét sự việc, thì dễ phán xét dựa trên lợi ích nhiều ít… Sĩ nông công thương, có phải là chiến tranh chăng? Có phải là không chiến chăng? Hồ nhân, Hán nhân, có gì khác biệt?”

Thái Sử Từ bỗng nhiên như bừng tỉnh, “Chủ công! Sáu hương sáu trục vốn là một thể! Sáu hương có thể thành sáu trục, ngược lại cũng vậy! Xác định hương không phải là hương, quyết định trục cũng không phải là trục! Nếu xét việc mà làm việc, thì sẽ lầm lẫn về con người! Nếu xét người mà làm việc, cũng sẽ lầm lẫn về sự việc!”

“Văn nhân và võ nhân cũng vốn là một thể!” Thái Sử Từ rõ ràng đã nắm bắt được điểm mấu chốt về Tây Vực, thần sắc đầy phấn khích, “Sĩ nông công thương đều quan trọng như nhau, không có trước sau, chiến cũng như vậy! Dưới trướng chủ công, vinh thì cùng hưởng, nhục thì cùng chịu! Lợi thì cùng hưởng, hại thì cùng chia! Tìm cái chung trong cái khác biệt, có thể làm thành một thể!”

“Chủ công!” Thái Sử Từ quỳ một gối xuống đất, cung kính bái lạy, thần sắc nghiêm trang, “Thần nhất định khắc ghi việc của Lữ Bố, lấy đó làm gương! Đặt đại cục lên hàng đầu! Thần sẽ coi Tây Hải và Trường An như một thể để thận trọng hành động! Thứ nhất, coi dân Tây Hải như người của quốc gia, định luật hương trục, củng cố các tiểu quốc. Thứ hai, trọng dụng cả bốn ngành mà không quên chiến tranh, dùng năng lực của quan văn để giám sát quyền lực, dùng sức mạnh của tướng võ để kiểm soát binh quyền! Thứ ba, nếu thần có chút nào tham ô, biếng nhác, dung túng tư lợi, thì xin tự trói mình trước mặt chủ công, muôn lần chết cũng không oán hận!”

“Hay! Tử Nghĩa đã hiểu thấu!” Phỉ Tiềm nâng Thái Sử Từ dậy, siết chặt tay hắn, “Tây Vực từ trên xuống dưới, giao cả cho Tử Nghĩa!”

Hai người nhìn nhau cười, nụ cười như bầu trời trên ải Ngọc Môn, trong sáng và thuần khiết.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
quangtri1255
09 Tháng mười, 2020 15:06
lão Nhũ bị táo bón rồi hay sao í.
Huy Quốc
08 Tháng mười, 2020 23:36
Mừng quá , tưởng cvt bỏ truyện rồi chứ, lâu rồi mới có chương đọc
xuongxuong
08 Tháng mười, 2020 23:06
Quá ngon :3
Hoang Ha
07 Tháng mười, 2020 02:57
Tiền giấy hay tiền đồng thì nó cũng như nhau thôi. Quan trọng là tín dự của chính quyền và cảm quan của người dân đối với đồng tiền. Trước tôi ở Philippines, tiêu là tiền peso. 1000 peso đại khái bằng 500 nghìn tiền mình, làm ra nhanh tiêu cũng nhanh, tháng lương tôi 70k peso, 33-35 triệu tiền việt. Nếu mà nói ở việt nam, ăn cơm mà tiêu hết 500 nghìn thì phải gọi là ăn ỉa, mà bên kia tôi cầm đi ăn 3 bát phở hết cmn luôn. Và quan trọng là tôi éo có khái niệm là 1000 peso bằng 500 nghìn vnd. Biết thì biết đấy nhưng cảm giác tiêu nó k xót. Thì cái tiền giấy lúc đầu phát hành nó cũng thế, cùng là một mệnh giá nhưng hình thức khác nhau thì người dân đối xử với nó cũng khác nhau. Và cái “money flow” dòng tiền nó di chuyển càng nhanh thì lượng tài chính thu về càng lớn. Cái này học rồi đấy nhưng mà t vẫn đ có hình dung tổng quát nên k nói sâu. Còn về sau phát hành chinh tây tệ là bởi lúc đó kinh tế ổn định rồi, k cần phải dùng tiền giấy nữa vì tiền giấy khó bảo quản, dễ lạm phát (cái này do trình độ sản xuất giấy quyết định, nếu giấy làm dễ thì dễ lạm phát, làm khó thì giống như vàng k tồn tại lạm phát) và quan trọng hơn nữa là mãi lực, hay gọi là sức mua của tiền xu thấp hơn tiền giấy do đó dẫn đến sự ổn định. Nếu sức mua cao trong thời gian dài thì người dân k có tiền tích trữ, thêm nữa giá hàng sẽ bị đẩy lên cao gây khủng hoảng tài chính rồi đầu cơ tích trữ. Lúc đấy thì xây lên đc tí lại nát ra như cớt nên mới phải chuyển loại tiền
Huy Quốc
06 Tháng mười, 2020 21:22
Hix, nhớ truyện quá :(
xuongxuong
05 Tháng mười, 2020 20:40
Đợi A Đẩu lớn Tiềm chắc cũng Ngũ Thập. Tri thiên mệnh rồi, kkk.
Trần Thiện
05 Tháng mười, 2020 18:48
Con tác đã nói rõ rành rành rồi đấy. Sĩ tộc said: bây giờ mày nắm trong tay 1 nửa đại hán thì đã sao, mấy chục năm sau mày chết rồi thì hahaha...
Trần Thiện
05 Tháng mười, 2020 18:44
Từ thời đại nô lệ đến cuối thế kỷ XX, các bài học lịch sử luôn đưa ra một tổng kết rằng: tất cả chỉ là phù du chỉ có 2 thứ là thật: 1 - đất, 2 - vàng. Muốn 2 thứ đấy, chỉ 1 thứ duy nhất có thể đổi đc, đó là MÁU. Nếu ông nghĩ rằng chỉ uốn ba tấc lưỡi có thể lấy 2 thứ đấy từ sĩ tộc, lãnh chúa,... thì ông mới là ấu trĩ. Đừng nói bây giờ con Tiềm là phiêu kỵ, nó có làm vua cũng thế thôi. Dăm ba cái trò lừa chỉ có tác dụng ở tầm vi mô thôi, ở tầm vĩ mô thì vứt đi nhé
Nguyễn Đức Kiên
05 Tháng mười, 2020 17:51
vì là như vậy nên mới cần chơi ra hoa dạng đến chứ. thứ nhất mở tiền trang hoặc ngân hàng là việc của phỉ tiềm. tham gia hay không cũng ko liên quan nên ko thể coi là cái gì cải cách lớn. thậm chí gửi tiền còn có lãi thì sĩ tộc cũng không thể nói gì. cùng lắm thì nói phỉ tiềm người ngốc nhiều tiền. thứ 2 uy tín của phỉ tiềm đủ để làm ra như vậy sự vật đến. thứ 3 là loạn lạc ai cũng muốn chôn vàng chôn bạc đi vào góc thì phải nghĩ cách móc ra chứ thấy nó chôn rồi bảo ko móc ra được không cần nghĩ thì tư duy chỉ có đi vào ngõ cụt. thứ 4 cũng là cho sĩ tộc một loại thể hiện thái độ. t vừa đè tào tháo xuống ma xát đấy. tụi m thấy có đáng đầu tư thì nhanh nhanh đi gửi tiền đi. đến lúc đó không phải vấn đề có gửi hay không mà là gửi nhiều ít.
trieuvan84
05 Tháng mười, 2020 17:39
không khéo A Đẩu xuất thế chống Phí Tiền Vương, lịch sử quay lại đường cũ, tam quốc phân tranh, 5 hồ loạn Hoa... :v
xuongxuong
05 Tháng mười, 2020 13:49
Tiềm làm quá thằng Quang Vũ Đế xuất thế lần 2 bây giờ, Tiềm lại thành Vương Mãng. Ha ha.
quangtri1255
05 Tháng mười, 2020 13:49
dân Việt mình cũng có thói quen tích trữ vàng đó thôi. Giờ vàng lên giá mắc quá không đủ tiền mua làm sính lễ cưới vợ
Nhu Phong
05 Tháng mười, 2020 12:19
Kẻ 6-1, người 7-2...
Trần Thiện
05 Tháng mười, 2020 11:52
Àh không phải nói là thời loạn lạc thì chỉ có đem vàng giấu đi cái chỗ nào mà chỉ bản thân biết thì mới đc xem là an toàn nhất
Trần Thiện
05 Tháng mười, 2020 11:23
Cái gọi là tiền giấy và trái phiếu nói bản chất chẳng qua uy tín của nhà cầm quyền với nhân dân. Bây giờ lũ sĩ tộc đéo tin tưởng ku Tiềm thì nó bị ngu mới đem vàng trong nhà ra đổi 1 đống giấy lộn. Thời loạn lạc thì chỉ có chất vàng trong nhà mới là an toàn nhất nhé, luôn luôn là thế
trieuvan84
05 Tháng mười, 2020 10:11
Tiềm làm tiền giấy bởi vì nó dễ hư hao nên bắt buộc phải lưu thông chứ không để cất kho như tiền đồng hay vàng bạc. thứ 2 là đẩy ra hệ thống ngân quỹ để củng cố vòng tiền cũng như trữ tiền qua hệ thống cho vay, tín dụng, lãi suất thấp nhầm thúc đẩy lưu thông hàng hóa lẫn tiền tệ với đám ngoại tộc, sau đó thông qua đồng hóa tạo thành đế quốc tài chính riêng, tách biệt với đám sĩ tộc lẫn quân phiệt còn đang nội chiến. Nói thẳng ra là nếu không phải do đám sĩ tộc trong địa bàn còn quá mạnh thì Phí Tiền cũng không cần phải cấp tốc cải cách ruộng đất theo chế độ quân điền, cải cách văn hóa để tụi kia có chuyện để làm và cải cách hành chính để âm thầm hất cẳng tụi sĩ tộc bám rễ trong địa bàn. Thời nào phải làm chuyện phù hợp với lúc ấy, Phí Tiền lúc mới ra đời mà đao to búa lớn như hiện tại thì thành Viên Thuật thứ 2, đến bây giờ làm gì cũng chẳng dám làm ra mặt mà phải lạt mềm buột chặt, treo đầu dê bán thịt cầy :v
trieuvan84
05 Tháng mười, 2020 10:03
ít ra đỡ nhục hơn Liv 2-7 Aston Villa ông ợ :v
Nguyễn Đức Kiên
05 Tháng mười, 2020 07:50
lúc đầu tiềm phát triển tiền giấy nhưng nói ko ăn thua do tiền giấy khó bảo quản dễ hư hao với phong tục không thích hợp phát triển tiền giấy. nhưng theo t có thể phát triển kiểu trái phiếu ngắn hạn. có giá trị giao dịch nhưng trong thời hạn nhất định và có tiền lời (nhỏ). ngoài ra ngân phiếu tiền trang và ngân hàng cũng là hướng phát triển không sai. sĩ tộc cũng ko thể bắt chước được vì tiền trang ngân hàng chỉ trên địa bàn rộng lớn buôn bán xa xôi mới có ý nghĩa còn sĩ tộc chỉ có uy tín trên địa bàn của họ. đi địa bàn khác lời nói không khác cái rắm. ngắm nghía hiện tại chỉ có phỉ tiềm với tào tháo địa bàn đủ lớn, uy tín đủ cao để phát triển tiền trang ngân hàng. đặc biệt là loại gửi tiền có lãi sĩ tộc chắc chắn sẽ chỉ cho rằng tiềm là kẻ ngốc nhiều tiền đổ xô đi đem tiền cho tiềm vay cầm về một tờ giấy. đến lúc đó tiềm mà bại thì mấy tờ giấy thành giấy vụn. đây cũng là thủ đoạn trói tay chân sĩ tộc không sai. vừa có thể huy động vốn, lại có thể buộc chặt sĩ tộc trên địa bàn vào chiến xa của mình.
Nhu Phong
04 Tháng mười, 2020 23:38
5-1 rồi... Tôi vào hang đây... Các ông ở lại bảo trọng nhé. Nhớ giữ gìn sức khỏe.
Nhu Phong
04 Tháng mười, 2020 22:22
Đậu má. Ra ngày đó thứ nhất cuối tháng, thứ nhì mới hốt cây Aris Pro (giao hàng tầm 25/10 trở đi).... Ra đây đãi tôi cafe nhé. Còn nhậu thì để xem vợ có cho đi hay không....Haha
Nhu Phong
04 Tháng mười, 2020 22:20
Mấy hôm nay bận thật các bố à. Thằng ku đéo hiểu sao nó kêu đau chân, đi bác sĩ khám thì lại mò không ra bệnh.... Loay hoay với nó cả ngày. Với cả trả những truyện kia trước, tàn tàn trả Quỷ Tam Quốc sau. Thôi tôi đi luyện MU - Gà trống đây. MU thắng mai trả chương tiếp. Thua thì xù... Thế nhé.... hế hế hế
Nhu Phong
04 Tháng mười, 2020 18:51
Đang trả nợ mấy truyện khác ông ơi.... Chờ đi ông ơi....
quangtri1255
04 Tháng mười, 2020 18:11
chủ nhật rồi thuốc đâu?
Hoang Ha
04 Tháng mười, 2020 05:09
Mấy thằng bày đặt thuyết âm mêu toàn mấy thằng ăn no rỗi việc ngồi xàm lz ấy. Còn cả cái diễn nghĩa toàn lão la bốc phét dựa trên câu chuyện có thật thôi
Hoang Ha
04 Tháng mười, 2020 05:05
Râu quai nón là các mác, ria mép là hít le, mấy vụ nói ria mép với râu quai nón là chỉ đức quốc xã với liên xô đấy lão nhu
BÌNH LUẬN FACEBOOK