Mục lục
Quỷ Tam Quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Tây Vực, từ Hán đại, đã trở thành bước đi đầu tiên của Hoa Hạ trong nỗ lực mở rộng ra ngoài.

Xét cho cùng, con đường tơ lụa này khá phù hợp với trình độ phát triển sản xuất của Đại Hán lúc bấy giờ.

Kỹ thuật hàng hải phải đạt đến một mức độ nhất định mới có thể thông suốt ra Đông Hải và Nam Cương. Tuyết vực tuy có thể đi qua bằng đường bộ, nhưng so với Tây Vực, con đường ấy thật quá hiểm trở. Dù đến đời sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng đi qua lại, có khi chưa đến nửa đường đã gặp chứng phản ứng độ cao mà bỏ mạng…

Do vậy, bước tiến Tây Vực thật sự vô cùng quan trọng.

Trước đây, Đại Hán khai thác Tây Vực không phải nhằm mở rộng lãnh thổ, mà để đối phó Hung Nô. Chính vì sai lầm này, khi Hung Nô suy yếu, Tây Vực cũng theo đó mà nhanh chóng mất đi tầm quan trọng. Sau đó, Hàn Dũ lại cho rằng Hoa Hạ “địa đại vật bá” (đất rộng của nhiều).

Ừm, tiên sinh Lỗ Tấn cũng từng nói điều tương tự, “địa đại vật bá.”

Rõ ràng, Hàn Dũ và Lỗ Tấn không phải kẻ xấu, nói Hoa Hạ đất rộng của nhiều cũng không sai. Nhưng vấn đề là có kẻ lợi dụng câu nói ấy để tô vẽ thêm, có kẻ cắt ghép, người không muốn thấy người khác khá hơn mình, chẳng khác gì đám tư bản thấy người bình thường kiếm thêm được một đồng mà đau đớn hơn cả mất đi ngàn vạn.

Thực tế, Hoa Hạ lại là một vùng đất nghèo nàn.

Nhìn lại lịch sử, so với những quốc gia có diện tích lớn khác, Hoa Hạ thật sự không có nhiều lợi thế.

Xứ Mỹ có nhiều than, nhiều khí, dầu mỏ cũng không thiếu, còn có cả dầu đá phiến. Địa hình bằng phẳng, thích hợp cho nông nghiệp.

Úc Đại Lợi nhiều sắt, nhiều khí, nhiều than. Khí hậu cực kỳ thích hợp cho chăn nuôi và nuôi trồng hải sản.

Đại Hùng Nga nhiều gỗ, nhiều dầu, nhiều khí, nhiều than.

Rồi nhìn lại Hoa Hạ, thiếu dầu, thiếu khí, thiếu than, đặc biệt thiếu than chất lượng cao, thiếu cả sắt và sắt chất lượng tốt. Đồng, bạc, vàng đều thiếu. Diện tích đất canh tác ít, địa hình đồi núi khiến việc cơ giới hóa nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Láng giềng xung quanh hơn hai mươi nước, phần lớn không phải những kẻ yên bình, từ thời cổ đại đã đánh nhau không ngừng, thù mới hận cũ không ít!

Với hoàn cảnh như thế, sao còn có thể mơ mộng tự mãn được?

Vì vậy, đối với Phỉ Tiềm, Tây Vực phải được mở ra!

Để cho Hoa Hạ đời sau có không gian rộng lớn hơn, bước này không thể không đi.

Nếu Trương Liêu chưa ra tay giết người ở Tây Vực, có lẽ hắn sẽ là một lựa chọn tốt cho chức Đô hộ Tây Vực.

Trương Liêu thận trọng, dũng cảm mà mưu trí, có thể nói là văn võ toàn tài, đủ để đảm đương trọng trách lớn.

Chỉ tiếc rằng Trương Liêu đã động thủ. Dù trong tình cảnh lúc đó, hắn có lý do chính đáng để hành động, nhưng đây không phải là cách thông thường.

Do đó, Thái Sử Từ giờ trở thành ứng cử viên chính.

Phải, ứng cử viên, nhưng không phải là duy nhất…

Nếu cần, Phỉ Tiềm có thể điều Giả Hủ tới, nhưng kẻ này thường thích chơi trò tâm lý, e rằng sẽ biến người Tây Vực thành trò đùa sống dở chết dở. Điều này sẽ có những tác động tiêu cực đến sự phục hồi nhanh chóng và phát triển của Tây Vực trong tương lai.

Bởi lẽ, có thể nhất thời không ai nhận ra, nhưng chẳng phải cả đời đều không thể nhận ra. Khi phương tiện trở thành mục đích, cuối cùng vẫn sẽ bị phản ngược mà thôi.

Phương cách của thời kỳ đặc biệt không phù hợp cho mọi hoàn cảnh.

Phỉ Tiềm cần một cách tiếp cận “phổ quát,” chứ không phải những hành động mang tính ứng phó tạm thời trong lúc nguy cấp.

Một thể chế chính trị muốn vững bền, ắt phải có sự phối hợp giữa văn và võ, giống như hai tay của một người. Nếu cứ lúc nào cũng lấy đao mà cắt bên này, chém bên kia, tuy có thể xử lý được vết thương và loại bỏ thịt thối, nhưng tại sao không chữa trị từ khi bệnh mới phát? Nếu đã có cách điều trị chính xác, cớ gì phải chặt tay, cưa chân?

Bệnh tật này, thậm chí còn kéo dài đến cả hậu thế.

Bước đi mà Phỉ Tiềm muốn thực hiện lúc này chính là bước đi mới cho Hoa Hạ. Tuy khó khăn, nhưng không thể không đi.

Thái Sử Từ cũng hiểu rằng mình phải theo bước Phỉ Tiềm, nhưng làm sao để hiểu rõ ý đồ của Phỉ Tiềm và thực hiện nó một cách chính xác, đó không chỉ đơn giản là câu nói “ta làm được” là có thể qua chuyện. Y cần phải chứng minh năng lực của mình trước mặt Phỉ Tiềm.

Thái Sử Từ nghĩ rằng Phỉ Tiềm chắc chắn không muốn đi con đường mà chính sự chỉ tồn tại khi người đứng đầu còn sống, rồi khi người đi thì chính sự cũng suy tàn theo. Chính vì thế mà Phỉ Tiềm rất cẩn trọng trong việc xử lý Lữ Bố. Do đó, Thái Sử Từ trong việc đối phó với Tây Vực cũng cần phải thận trọng, không thể tùy tiện mà “đốt lửa” ngay lập tức.

Nhưng cũng không thể không làm gì…

Như người xưa vẫn nói: “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa.”

Dường như ai cũng biết rằng việc làm như vậy không tốt, ai cũng hiểu rằng để thận trọng thì đừng vội vàng thể hiện khả năng của mình chỉ để đốt ba đống lửa mà phô trương thanh thế. Thường thì vì không nắm rõ tình hình, kết quả lại thất bại.

Lý thuyết lớn, ai cũng hiểu.

Nhưng nhiều khi, khi đã ngồi lên ghế, thì lại không thể kiềm chế được mà muốn “đốt” thử.

Nếu cứ mãi không hành động, thì người trên sẽ hỏi: “Này, tiểu nhân, ngươi xuống đó đã lâu, đã làm được gì rồi?”

Người dưới cũng sẽ hỏi: “Lão già này đang toan tính âm mưu gì đây, sao còn chưa ra tay?”

Rồi khi đốt, trừ kẻ bị đốt ra, mọi người đều cảm thấy thoải mái.

Thật thú vị, câu thành ngữ “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” xuất phát từ đâu? Nguyên bản của nó thực ra là ba đám lửa của Gia Cát Lượng sau khi xuất sơn: trận Bác Vọng Phố, trận Tân Dã và trận Xích Bích.

Nhưng vấn đề là, ba đám lửa này là do La Quán Trung hư cấu ra…

Chúng thuộc về diễn nghĩa.

Trong lịch sử thực, ba đám lửa này không hẳn liên quan nhiều đến Gia Cát Lượng.

Trận Bác Vọng Phố, do Lưu Bị đích thân chỉ huy, mà thậm chí Lưu Bị không phải đốt quân địch, mà là tự đốt doanh trại của mình. Khi đó hai bên đối đầu lâu ngày ở Bác Vọng, Lưu Bị bất ngờ chuyển biến chiến lược, tự đốt trại mình rồi giả vờ rút lui. Hạ Hầu Đôn ra lệnh truy kích, phó tướng Lý Điển can ngăn, cho rằng đối phương có thể phục binh trong đám cỏ, nhưng Hạ Hầu Đôn không nghe.

“Khi Đôn cùng tiến công, gặp phải phục binh, bị đánh bại. Điển đến cứu, Lưu Bị thấy cứu viện tới, liền rút lui.” Nếu khi đó quân Lưu Bị không quá yếu, có khi đã phản công ngược đến tận thành Trường Xã!

Trận Bác Vọng Phố là một ví dụ kinh điển do Lưu Bị trực tiếp chỉ huy. Có vẻ như chỉ cần không phải là Tào Tháo đích thân dẫn quân, Lưu Bị hầu như luôn có thể đánh bại bất kỳ tướng nào dưới trướng Tào Tháo…

Nhưng khi Tào Tháo đến, Lưu Bị không còn cách nào khác, phải rút lui.

Vậy nên, trận lửa Tân Dã thực ra không hề tồn tại.

Còn trận lửa Xích Bích…

Cũng chỉ là vậy thôi.

Vì vậy, cái gọi là “ba đám lửa” chỉ là sự “đội mũ nhầm”, một đám “không hề có”, và một đám “đổi quả lấy trái”.

“Soga…” Người hiểu chuyện gật đầu liên tục, tỏ ra đã hiểu.

Còn trong hậu thế, câu “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” thực ra chủ yếu là ám chỉ đến ba thứ: nhân, tài, vật.

Bởi lẽ nhân, tài, vật của một đơn vị chính là mạch sống của đơn vị ấy. Cho nên, khi một vị lãnh đạo mới nhậm chức, việc đầu tiên chính là thay thế chánh văn phòng. Chánh văn phòng thường là thân tín của lãnh đạo, không chỉ lo chu toàn công việc mà còn xử lý những việc mà lãnh đạo không tiện ra mặt. Đồng thời, chánh văn phòng có vai trò điều phối tổng hợp, cần phải chọn một người mới, người mà lãnh đạo tin cậy.

Tiếp theo, chính là bộ phận tài chính. Dù là một đơn vị hay một gia đình, từ xưa đến nay, ai quản tiền người đó có uy. Tài chính của một đơn vị cần phải được quản lý bởi người mà lãnh đạo tin tưởng, bởi nếu không, chỉ cần vài chiêu trò nhỏ cũng đủ khiến lãnh đạo gặp khó khăn. Rồi sau đó là nhân sự, xem xét sự đoàn kết của đơn vị. Bắt đầu từ phòng nhân sự, kế đến là thay đổi các lãnh đạo cấp trung.

Khi đã thay đổi hết nhân, tài, vật, lúc đó lãnh đạo mới thực sự nắm chắc quyền hành của đơn vị.

Nhưng điều này thực sự cần thiết sao?

Nhiều người cho rằng, sau khi một lãnh đạo tiền nhiệm đã đi qua, thì người trong đơn vị hầu như đều là thuộc hạ của vị đó, nên khi một lãnh đạo mới nhậm chức, công việc khó có thể thuận lợi. Vì thế, việc “Quan mới lên nhậm chức, phải đốt ba đống lửa” là điều không thể tránh khỏi và cần phải làm. Còn những việc khác, như thay đổi một số quy chế, cải thiện môi trường làm việc, treo vài băng rôn, khẩu hiệu, tất cả chỉ là để tạo nền cho ba đống lửa ấy.

Nhưng vấn đề là, đôi khi điều này có thể cần thiết, nhưng phần lớn những lúc đó, mọi việc lại bị phóng đại quá mức.

Phỉ Tiềm không muốn Tây Vực trở thành ví dụ đầu tiên bị “phóng đại” dưới tay mình.

Đối với Thái Sử Từ, y phải có hành động, nhưng không thể hành động tùy tiện. Là người kế nhiệm, y cần phải hiểu rõ con đường và phương hướng để tránh đi lệch đường.

Phỉ Tiềm hỏi Thái Sử Từ về chuyện của Lữ Bố và Tây Vực, thoạt nhìn như hỏi về Lữ Bố, nhưng thực ra là đang hỏi về cả chính sự của Tây Vực!

“Thần… ngu độn,” Thái Sử Từ cho rằng để Phỉ Tiềm tự quyết định vẫn tốt hơn, bèn thưa rằng: “Thần nhất thời chưa rõ, chỉ xin chủ công ban lệnh, thần nhất định tuân theo.”

Lời này nghe có vẻ hợp lý?

Đúng và khôn khéo?

Đây chính là chỗ mà Thái Sử Từ hơn hẳn Lữ Bố.

Nhưng cũng chính là nơi mà Thái Sử Từ chưa đủ khôn ngoan…

Vì thế, Phỉ Tiềm quyết định cho Thái Sử Từ một bài học nhớ đời.

Phỉ Tiềm cười nhẹ, giơ hai ngón tay, nói: “Nếu vậy, ta nghĩ rằng, việc Lữ Phụng Tiên ở Tây Vực, nên đối sự không đối người, nhưng cũng phải đối người không đối sự.”

Thái Sử Từ rõ ràng ngơ ngác, một lúc sau mới cúi đầu lạy, nói: “Xin chủ công chỉ điểm!”

Phỉ Tiềm khẽ gật đầu, đáp: “Điền Bá Định yêu người hiền mà giữ vững quân chủ, Bạch Công yêu người hiền mà làm loạn Kinh Châu. Yêu người hiền thì giống nhau, nhưng cách hành động thì khác. Công Tôn Hữu tự cắt chân mà tôn vinh Bách Lý Hề, còn Sửu Điêu tự hoạn mình mà nịnh bợ Hoàn Công. Hành động tự hại thì giống nhau, nhưng mục đích thì khác. Huệ Tử nói, ‘Kẻ điên chạy về hướng đông, kẻ đuổi theo cũng chạy về hướng đông. Họ đều đi về hướng đông, nhưng lý do đi về hướng đông lại khác nhau. Bởi thế mới nói, không thể không xem xét kỹ lưỡng người làm cùng việc.’ Tử Nghĩa hiểu rõ lẽ này chăng?”

Thái Sử Từ phần nào hiểu, nhưng cũng phần nào chưa rõ. Y suy nghĩ rất lâu, rồi dò hỏi: “Lời của Hàn Phi Tử có vẻ như bỏ qua sự việc mà coi trọng con người, nhưng ai biết được hướng đông này là hướng đông nào? Nếu nhìn theo sự việc, thì giống nhau, nhưng nếu nhìn theo con người, thì lại khác. Vậy điều này phải giải thích ra sao? Xin chủ công chỉ giáo thêm.”

Lời của Hàn Phi Tử thực ra muốn nói rằng nên chú trọng con người hơn là chỉ nhìn vào sự việc, bởi như Hàn Phi Tử từng nói, có thể một kẻ điên chạy về hướng đông, rồi một đám người cũng chạy theo hướng đông. Việc họ làm có vẻ giống nhau, nhưng người thì khác nhau. Thế nhưng, nếu nói như vậy chẳng phải sẽ mâu thuẫn với lời của Phỉ Tiềm trước đó rằng “đối sự không đối người” hay sao?

Phỉ Tiềm mỉm cười, “Việc là do con người mà thành. Như ta đã nói ngày hôm qua, con người nên tranh với trời, tranh với đất, tranh với người khác. Kẻ tranh ắt có điều cần làm, cũng có điều không thể làm. Đây chính là việc thành bởi con người… Thứ nhất, cần có tâm thế của kẻ làm nên đại sự, không vì gian nan mà sợ hãi. Thứ hai, cần có tâm trí tường tận, quan sát sự việc để thấu hiểu con người.”

Thái Sử Từ gật đầu đáp: “Quả đúng như vậy! Lúc ban đầu chưa hiểu người, ắt nên xem xét sự việc! Do đó có câu, đối sự không đối người. Khi đã hiểu rõ người, ắt nên xét đến người trước! Lúc ấy mới có thể nói, đối người không đối sự…”

Phỉ Tiềm gật đầu, “Tử Nghĩa đã hiểu được một phần.”

Thái Sử Từ sững sờ, hỏi: “Ý của chủ công là… vẫn còn điều gì chưa nói ra sao?”

Phỉ Tiềm khẽ gật đầu.

Thái Sử Từ cau mày, đăm chiêu suy nghĩ.

Thực ra trong truyền thống tư tưởng của Trung Hoa, người ta thường nghe thấy hai khái niệm dường như đối lập nhau: “đối sự không đối người” và “đối người không đối sự.”

Những người ủng hộ quan điểm “đối sự không đối người” cho rằng, yếu tố khách quan mới thực sự thể hiện sự công bằng, không thiên vị. Còn những người ủng hộ “đối người không đối sự” lại cho rằng, bản chất và khả năng của con người mới là yếu tố quyết định kết quả của sự việc.

Có người khi còn trẻ thì cho rằng “đối sự không đối người” là chân lý tối thượng, nhưng khi tuổi già, kinh nghiệm dày dặn hơn, lại quay sang nghĩ rằng “đối người không đối sự” mới là đúng đắn. Dĩ nhiên, cũng có người ngược lại, khi còn trẻ chỉ thích nhìn mặt đẹp trai, mỹ nữ, bất kể họ làm gì cũng đều đúng, ngay cả khi đánh rắm cũng thơm. Nhưng khi già đi, họ mới nhận ra rằng, ngay cả người đẹp cũng phải đi vệ sinh, và… vệ sinh của ai cũng có mùi.

Vì thế, dù là “đối sự không đối người” hay “đối người không đối sự,” cả hai đều là những cách suy nghĩ tập trung, theo lối giản lược.

Thế giới bao la, sự việc rối ren, lòng người phức tạp, nên ai cũng mong muốn có một phương pháp đơn giản, một khuôn mẫu chung để áp dụng vào mọi thứ một cách dễ dàng. Nhưng rõ ràng, điều đó không thể thực hiện được, và đây chính là điều mà Phỉ Tiềm muốn Thái Sử Từ hiểu khi cai trị Tây Vực.

Càng muốn đơn giản hóa, mô hình hóa, lại càng nhận ra Tây Vực không phải là nơi dễ dàng, không thể dùng khuôn mẫu chung để áp dụng.

Nhà Hán đã áp dụng chế độ quận huyện hơn ba, bốn trăm năm nay…

Chế độ quận huyện chính là một mô hình quản lý địa phương đơn giản.

Nhưng nếu áp dụng nó vào Tây Vực, liệu có thực sự hiệu quả?

Dĩ nhiên, nếu áp dụng mô hình này, có thể sẽ tiết kiệm được rất nhiều công sức và lo toan.

Giống như Thái Sử Từ “không hiểu thì hỏi,” rồi bày tỏ mong muốn để Phỉ Tiềm “càn khôn độc đoán.”

Nhưng một khi mọi chuyện bị tuyệt đối hóa, sẽ dẫn đến sai lầm.

Việc tuyệt đối hóa “đối sự không đối người” thực chất là một dạng cực đoan của chủ nghĩa hiện thực, bởi bề ngoài tuy đề cao sự công bằng khách quan, nhưng thực tế lại hướng đến một thứ cơ hội chủ nghĩa ngắn hạn. Bất kể là người tốt hay xấu, chỉ cần xem xét việc họ làm có phù hợp hay không, tương tự như việc chỉ nhìn vào lợi ích ngắn hạn trong sự việc đó. Nếu phù hợp, nếu lợi ích tương thích, thì họ sẽ trở thành đồng minh, cùng nhau tiến bước trong một chặng đường.

Việc khiến mỗi người dù bề ngoài làm cùng một sự việc, nhưng bởi vì người thực hiện và lý do thúc đẩy sự việc lại khác nhau, kết quả về sau cũng sẽ chẳng giống nhau. Có thể cùng nhau đi một đoạn đường thì cứ đi, nhưng đi được bao xa còn tùy thuộc vào việc khi sự việc tiếp theo đến, liệu đôi bên có còn chung quan điểm và tương đồng lợi ích hay không. Con đường trước đây dẫu có tốt đẹp đến mấy, tới ngã rẽ kế tiếp vẫn có thể đâm sau lưng nhau. Mọi chuyện đều dựa trên lợi ích mà tính toán, không có thù hận cá nhân, ai cũng có thể hợp tác rồi tan rã bất cứ lúc nào, chẳng ai phải suy nghĩ sâu xa.

So với điều này, việc “đối người không đối sự” không hẳn là một chiến lược, mà là một nguyện vọng.

Một nguyện vọng mà thực chất rất khó thực hiện.

Nếu tuyệt đối hóa nó, chắc chắn sẽ gây ra đại họa.

Nguyện vọng mong muốn thành công nhờ người, thực chất là đặt niềm tin rằng, dưới hàng loạt quan điểm khác nhau và lợi ích chồng chéo, con người vẫn giữ được bản chất của mình, và người đó đáng tin hơn những quan điểm hay lợi ích kia. Nguyện vọng này hướng về con người, cho rằng quan điểm có thể tạm thời mờ mịt, lợi ích có thể tạm thời chia rẽ, nhưng cuối cùng người đó vẫn là người đáng tin cậy, và sự việc do họ làm cũng có thể tin tưởng.

Nhưng điều đó có thể sao?

“Đối sự không đối người” khó ở chỗ nắm bắt sự việc.

Nếu sự việc không rõ, không minh bạch, không biết đúng sai, thì dù là chuyện lớn hay nhỏ, cuối cùng cũng trở thành ác chính.

“Đối người không đối sự” khó ở chỗ nhìn người.

Ai có thể dám chắc rằng mình luôn nhìn đúng người?

Dẫu một lúc nào đó có thể nhìn đúng một người, nhưng theo thời gian, sự việc thay đổi, con người cũng đổi thay. Lúc ấy, người thay đổi liệu còn là người trước kia không?

Khả năng nhận định một người thường thể hiện qua lý lịch, nhưng những điều không có trong lý lịch thì chỉ có thể kiểm nghiệm qua công việc. Nhưng để đánh giá một con người thực sự thế nào, không có phương pháp nào là hoàn toàn đáng tin.

Thái Sử Từ càng nghĩ càng thấy đau đầu, trước khi nói chuyện với Phỉ Tiềm, hắn vẫn nghĩ rằng mình đủ thông minh. Nhưng không ngờ càng nói chuyện, đầu óc hắn càng rối tung. Giờ đây, hắn cảm giác như trong đầu là một mớ tơ vò, càng suy nghĩ càng thấy bế tắc, có cảm nhận nhưng không thể nắm được đầu mối.

Phỉ Tiềm cười nói: “Làm sao có sáu hương và sáu trục? Văn nhân thì sao, võ nhân thì thế nào? Tử Nghĩa, không nên câu nệ. Nếu xét sự việc mà xét người, thì dễ mắc sai lầm vì cảm tình yêu ghét. Nếu xét người mà xét sự việc, thì dễ phán xét dựa trên lợi ích nhiều ít… Sĩ nông công thương, có phải là chiến tranh chăng? Có phải là không chiến chăng? Hồ nhân, Hán nhân, có gì khác biệt?”

Thái Sử Từ bỗng nhiên như bừng tỉnh, “Chủ công! Sáu hương sáu trục vốn là một thể! Sáu hương có thể thành sáu trục, ngược lại cũng vậy! Xác định hương không phải là hương, quyết định trục cũng không phải là trục! Nếu xét việc mà làm việc, thì sẽ lầm lẫn về con người! Nếu xét người mà làm việc, cũng sẽ lầm lẫn về sự việc!”

“Văn nhân và võ nhân cũng vốn là một thể!” Thái Sử Từ rõ ràng đã nắm bắt được điểm mấu chốt về Tây Vực, thần sắc đầy phấn khích, “Sĩ nông công thương đều quan trọng như nhau, không có trước sau, chiến cũng như vậy! Dưới trướng chủ công, vinh thì cùng hưởng, nhục thì cùng chịu! Lợi thì cùng hưởng, hại thì cùng chia! Tìm cái chung trong cái khác biệt, có thể làm thành một thể!”

“Chủ công!” Thái Sử Từ quỳ một gối xuống đất, cung kính bái lạy, thần sắc nghiêm trang, “Thần nhất định khắc ghi việc của Lữ Bố, lấy đó làm gương! Đặt đại cục lên hàng đầu! Thần sẽ coi Tây Hải và Trường An như một thể để thận trọng hành động! Thứ nhất, coi dân Tây Hải như người của quốc gia, định luật hương trục, củng cố các tiểu quốc. Thứ hai, trọng dụng cả bốn ngành mà không quên chiến tranh, dùng năng lực của quan văn để giám sát quyền lực, dùng sức mạnh của tướng võ để kiểm soát binh quyền! Thứ ba, nếu thần có chút nào tham ô, biếng nhác, dung túng tư lợi, thì xin tự trói mình trước mặt chủ công, muôn lần chết cũng không oán hận!”

“Hay! Tử Nghĩa đã hiểu thấu!” Phỉ Tiềm nâng Thái Sử Từ dậy, siết chặt tay hắn, “Tây Vực từ trên xuống dưới, giao cả cho Tử Nghĩa!”

Hai người nhìn nhau cười, nụ cười như bầu trời trên ải Ngọc Môn, trong sáng và thuần khiết.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 20:54
Lưu Độ nắm Linh Lăng, cũng coi như là 1 quận lớn ở Hồ Nam. Lưu Phạm ban đầu xuôi nam tiếp nhận GC để liên kết với Thục Trung cát cứ Tây, Nam đế quốc nhưng không thành do bị thế lực địa phương là Sĩ gia nắm hết cơ sở nên chỉ là chức suông, bù nhìn. Sau đó LP chạy qua Lưu Độ mượn quân đánh úp GC, nhưng mà lạc đường + vườn không nhà trốn nên cứ loay hoay trong rừng dưới sự giám sát của Sĩ Tiếp. Sau này Hứa Tĩnh qua đầu quân GC nên Sĩ Tiếp giao cho 1 cái đầu danh trạng là: xúi Lưu Phạm nhảy hố Nam Trung, các nhà đánh phó bản, mỗ chơi nông trại vui vẻ. :v
quangtri1255
23 Tháng năm, 2020 16:34
c1770 nhờ mấy bác tóm tắt tình hình Giao Châu cái. Lưu Phạm Lưu Độ Sĩ Nhiếp ntn với. Lưu Độ ở chỗ nào, có nắm thực quyền không? Lưu Phạm ở chỗ nào.... Sĩ Tiếp vẫn giữ thực quyền hay lùi lại sau màn thao túng?
Huy Quốc
23 Tháng năm, 2020 01:48
Mà tác giả chuyện này viết đúng chứ đâu thêm bớt gì quá đâu, rõ ràng thời tam quốc thì vn cũng chỉ coi như là 1 dạng dân tộc nhỏ như ng khương hay hung nô thôi, vs lại tác giả là ng trung mà, dù muốn hay ko thì vẫn phải thiên về phía nước của họ, đọc truyện chủ yếu là hiểu thêm về thời tam quốc thôi nên mọi người hãy bình tĩnh vs thoải mái mà đọc, đừng vì thấy nhắc tới giao chỉ này nọ rồi lại drop truyện, trừ khi nào mà tác giả đặt điều phi logic quá thôi
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:20
thực ra là có tộc Hoa đó bạn. Dân đi tàu xuôi từ Lưỡng Quảng xuống NTB vs NB khai hoang
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:18
nhắc tới GC nhưng thật ra cũng chưa động gì nhiều, chủ yếu là lập trường chính trị vs lập phó bản tập trung ở Nam Trung. Thực tế là con Phí Tiền cũng nói: gân gà, rảnh ruồi như Trư ca mới 7 bắt 7 thả, Thục Trung cũng chỉ là cái kho lương, diệt hết chuột lang thì lòi ra chuột cống, nên cũng chỉ có thể tìm cách trấn áp bằng tin giả, sau đó dùng người địa phương trị người đụa phương. Mấy chương trước thì con tác mặc định Sĩ Tiếp là người địa phương của GC rồi, mặc dù quê gốc là ở chỗ khác :v
xuongxuong
22 Tháng năm, 2020 21:05
Mình thấy bình thường, như mình hay nhóm tác giả quyển Cơ sở Văn hóa VN hay bảo lưỡng quảng là của VN vậy. Con tác là dân Trung thì Lập trường phải rõ ràng nếu không thì truyện nó drop từ tận bên TQ, xứ nó kiểm duyệt kỹ thôi rồi. Ấy thế mà con tác cũng cà khịa Thái Tổ, Hoàng Đế cả nùi. Với lập trường con tác với Mông Cổ cũng không tệ, binh bại nhưng phong cách. Nên mình nghĩ cứ theo dõi, khi nào dối trá hay mạt sát thì droo.
Nguyễn Đức Kiên
22 Tháng năm, 2020 19:03
nói nhân chủng thì hơi xa. vấn đề là thái độ chính trị chứ ko phải nhân chủng hay dân tộc văn hoá gì. như trong truyện nói thì dù hồ dù khương nói tiếng hán dùng hán lễ thì cũng là người hán. tình hình lịch sử thời điểm đó đúng là chúng ta là thuộc hán, văn hoá chúng ta bị ảnh hưởng bởi văn hoá trung quốc. cái này ko có gì bàn cãi cũng không có gì phải xấu hổ vì dù thế chúng ta vẫn giữ được độc lập tự do, phát triển ra văn hoá của chúng ta. học tập tiến bộ mới phát triển tồn tại được còn bo bo giữ cái cũ cổ hủ thì bị đào thải là điều tất nhiên. còn người hán hay người kinh thì cái này là vấn đề tư tưởng chính trị là chính. ví dụ như quang trung nếu thực sự yêu sách được 2 tỉnh quảng đông quảng tây từ chính quyền mãn thanh thì chúng ta có lẽ bây giờ khối đại đoàn kết toàn dân có thêm dân tộc hán.
Hieu Le
22 Tháng năm, 2020 17:07
từ vụ LB đánh tây vực là ta nghi nghi sẽ tới Giao Chỉ rồi. chuyện này ko khéo sợ bị drop quá.
chipchipne
22 Tháng năm, 2020 10:54
truyện hay hi vọng con tác ko bị bệnh mãn kinh mà drop :(
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 10:24
@jerry: đang nói tình hình lịch sử lúc đó thì Giao Châu bao gồm từ Quảng Tây trở xuống hết đồng bằng sông Hồng (gọi tên theo bây giờ cho nôm na dễ hiểu). Đất Đông Lào lúc đó rất rộng nhưng thưa dân, đa số là rừng núi nên bị coi là man hoang. Thêm nữa, cái Hải Nam lúc đó là chưa có đảo Hải Nam. Còn về nhân chủng thì biết Đông lào là Mongoloites đi cho đỡ nhức đầu, chứ tính vs Negroloites thì còn cao và xa lắm :v vậy đi cho mấy bạn khát nước bên kia có cùng nhân chủng để dễ lập bản xứ :)))))
jerry13774
22 Tháng năm, 2020 09:50
từ thời Triệu Đà đã có chữ viết là chữ nòng nọc theo ảnh hưởng của nền văn hóa ấn độ, dân việt lúc đó đã có nguồn gốc giống với dân nam á, sau ngàn năm bắc thuộc đã hủy diệt nền văn hóa bản địa ban đầu và ngày nay được xây dựng lại bị ảnh hưởng nặng nề của nho giáo
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 08:28
lầu trên, chữ Nôm đúng thực tế cũng là mô phỏng theo chữ Hán, nó nói là nó khai sáng văn minh cho mình cũng không có gì sai, vì trước khi bị Triệu Đà xâm lược thì tộc Đông Lào cũng là hổ báo nhưng ở cấp mẫu giáo, thứ nhất là lập quốc từ nhiều bộ tộc, thứ hai là dân số không đông, thứ ba là chưa chính thức có cái gọi là văn tự để truyền thừa thực tế. Thực tế là từ văn hoá Đông Sơn đến tận Cổ Loa, chưa tìm được văn tự gốc của dân tộc, mà chỉ là các hình vẽ trên hang đá, trống đồng, các di chỉ,... Một điều nữa là: kể cả Hàn Quốc, Nhật Bản lẫn Bắc Triều Tiên đều dùng bộ ký tự biến thể từ Hán Ngữ, đặc biệt là có khi xài song song như là quốc ngữ dùng trong học tập và làm việc. VN thì hên hơn là triều hậu Lê lẫn Trịnh Nguyễn hùng mạnh nên vừa mất đất, xém tý mất tính ngưỡng, còn bộ chữ viết thì phải đổi để dễ đồng bộ, đồng hoá vs mẫu quốc :))))
huydeptrai9798
22 Tháng năm, 2020 02:54
Vẫn là giọng văn thiên triều tiêu biểu :))) đến cả chữ nôm cũng vơ vào của nó thì chịu rồi
Nhu Phong
21 Tháng năm, 2020 20:08
Chương tiếp theo có nhắc đến Giao Chỉ - Việt Nam. Tuy nhiên các vấn đề nhắc đến đều có trong lịch sử.....Mình sẽ tiếp tục convert và cân nhắc thái độ, quan điểm của tác giả khi nhắc đến Việt Nam.... Thân ái ----------------------------------------- Sĩ Tiếp làm dân chính quan tới nói, cũng coi là không tệ, chí ít tại Trung Nguyên đại loạn đoạn thời gian này bên trong, không chỉ có ổn định Giao Châu địa khu, còn cùng xung quanh dân tộc thiểu số ở chung hòa thuận, thậm chí còn tại Giao Châu phát triển Nho học. Bất quá cùng Phiêu Kỵ Tướng Quân Phỉ Tiềm không giống chính là, Sĩ Tiếp còn không có tiến thêm một bước đến giáo hóa trình độ, chỉ là " Sơ khai học, giáo thủ trung hạ kinh truyện", bất quá liền xem như như thế, cũng ảnh hưởng tới một nhóm Giao Chỉ địa khu dân chúng bắt đầu thông thi thư, biết lễ nghi. Thậm chí ảnh hưởng đến hậu thế, Việt Nam đang phát triển trong quá trình, từng sinh ra một loại văn tự, gọi là chữ Nôm. Có người cho rằng loại này chữ Nôm liền là Sĩ Tiếp thổ sáng tạo, vì để cho Giao Chỉ người tốt hơn học tập Hoa Hạ kinh truyện. Đến mức hậu thế tại 《 Đại Việt sử ký toàn thư 》 còn đem Sĩ Tiếp nhậm chức thời kỳ này làm một cái kỷ niên đến ghi chép, xưng là "Sĩ Vương Kỉ" . Văn hóa truyền bá khiến cho Giao Chỉ địa khu bắt đầu chậm rãi đi vào văn hóa thời đại, chậm rãi thoát khỏi nguyên lai dã man lạc hậu cách sống. Từ góc độ này tới nói, Sĩ Tiếp tại Giao Chỉ địa khu địa vị, có thể thấy được lốm đốm. ------------------------------------------------
tuan173
21 Tháng năm, 2020 15:38
Tiếp theo ý của bạn trieuvan84, theo thuyết di truyền quần thể, một cặp vợ chồng cần có hai người con trưởng thành tới tuổi sinh sản để đảm bảo sự giống còn của giống loài. Cộng thêm điều kiện sinh sản khó khăn thời xưa. Nếu tính số trung bình, người vợ cần sinh sản 5,6 người con, may ra mới đảm bảo con số 2 nêu trên. Cộng thêm tuổi thọ trung bình thời xưa vốn rất thấp, thành ra cả đời người phụ nữ chỉ có khi tập trung cho việc sinh sản. Nên việc săn bắn, hái lượm, bảo vệ lãnh thổ thì dần phụ thuộc vô giống đực. Nên cán cân quyền lực bị dịch chuyển về phía giống đực thôi. Mình vừa trình bày một thuyết thôi nha, các bạn đọc để có thêm suy nghĩ. Điều này còn cần được kiểm chứng.
trieuvan84
21 Tháng năm, 2020 10:06
thêm cái nữa phụ nữ khi có mang thì... ai có rồi tự hiểu, rồi khi tới tuổi mãn kinh thì.. haha mà đúng nhiều chức quan đôi khi nam làm không tinh tế bằng nữ, thí dụ như lễ quan hay dịch quản, thư quản
Trần Thiện
20 Tháng năm, 2020 23:04
Thật ra cái vụ từ mẫu hệ sang phụ hệ thì nguyên nhân chính là giống đực có tính chiếm hữu mạnh, bạo lực max cấp. Trong khi giống cái ngược lại thôi. Con tác giải thik lằng nhằng vãi nồi
Nguyễn Đức Kiên
20 Tháng năm, 2020 18:44
tào tháo cho người (ko nhớ ai) mang bảo kiếm đến tận nơi. ko nghe lệnh rút cướp quân quyền mà mang về rồi mà. lấy đâu ra quân mà đánh.
quanghk79
20 Tháng năm, 2020 16:21
Hạ Hầu Uyên là danh tướng, nóng tính nhưng ko phải dạng bất chấp tất cả. Có thể cãi lệnh nhưng sẽ ko nướng quân đâu.
Huy Quốc
20 Tháng năm, 2020 14:17
Bên tào huỷ nhưng hạ hầu uyên cãi lệnh mà, k biết tào nhân có chạy theo cản ko, chứ lần gần nhất là hạ hầu uyên đuổi tk đưa tin về rồi tiến quân đánh thì phải
Nguyễn Minh Anh
20 Tháng năm, 2020 13:37
kế hoạch đánh Bình Dương bị hủy bỏ rồi mà, Tào Tháo ko dám đánh nếu Phỉ Tiềm ko xuất binh trước
Nguyễn Minh Anh
20 Tháng năm, 2020 13:36
Cái chỗ này đúng là bug, thật sự là chăn nuôi rất tốn lương thực, những truyện khác có nhắc đến chăn nuôi heo thì là sau khi dư thừa lương thực (có khoai tây khoai lang)
Huy Quốc
20 Tháng năm, 2020 01:12
Sau cái vụ mất kiến ninh này chắc lại thanh lý môn hộ khu xuyên thục quá, nhớ lại lần trước chịu thiệt ở quan trung xong sau đó tiềm truy ra giết 1 bầy mà giờ quan trung ko còn ai dám hó hé, mà đợi hoài vẫn chưa thấy nhắc tới vụ hạ hầu uyên
gangtoojee
19 Tháng năm, 2020 13:19
nó mới làm một trang trại nhỏ làm mô hình thui mà bác , có phải phổ biến toàn dân đâu thời này của nó chắc tốn 10 kg lương thực cho 1 kg thịt heo với mục đích phục vụ cho quan lại nhà giàu chứ không phải cho dân thường
quangtri1255
19 Tháng năm, 2020 08:20
từng xem mấy clip ăn uống mấy món như cục thịt mỡ to mấy ký mà nó cũng ăn hết trong khi mình chỉ nhìn mà ngán thôi rồi
BÌNH LUẬN FACEBOOK