Mục lục
Quỷ Tam Quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

“Thánh hiền xưa trị dân, theo đạo của dân mà làm. Như Đại Vũ dẫn dòng nước, theo đạo của nước; Tạo Phụ thuần dưỡng ngựa, theo đạo của ngựa; Hậu Tắc làm ruộng, theo đạo của đất. Vạn vật đều có đạo lý riêng. Vậy đạo lý của Tây Vực là ở đâu?”

Phỉ Tiềm đưa mắt nhìn quanh, trầm giọng nói, “Nằm trong hai chữ ‘lễ tục’.”

Lễ tục, lễ giáo.

Lễ giáo ăn người.

Đây gần như là một sự thống nhất trong tư tưởng của những người hậu thế Hoa Hạ, nhưng có bao nhiêu người thực sự tìm hiểu lễ giáo ‘ăn’ thế nào, hay chỉ nghe theo người khác mà lặp lại? Có người chỉ nói theo kẻ khác rằng lễ giáo ăn người, nhưng liệu mấy ai thật sự suy ngẫm và tìm hiểu? Hay chỉ đơn giản vì không cam lòng với vị thế của mình mà sinh ra lòng oán trách?

Phỉ Tiềm ở Tây Vực, quyết định khởi xướng giáo hóa.

Muốn giáo hóa, đương nhiên không thể một mình hắn ta lặn lội làm hết mọi việc. Những văn quan vừa đến Tây Vực là lực lượng trợ giúp đắc lực và quan trọng nhất của hắn.

Lễ giáo cũng là công cụ, giống như một lưỡi dao, có thể dùng để răn dạy dân trong nước, nhưng cũng có thể hướng ra ngoài, trở thành xiềng xích tinh thần cho người ngoại quốc.

Chu Công đã đặt định lễ nghi và âm nhạc, đó là khởi nguồn quan trọng của tinh thần văn hóa Hoa Hạ cổ xưa, với ý niệm tốt đẹp. Giống như đạo lý của Khổng Tử, Lão Tử, hay Phật Đà, thuở ban đầu đều là những giáo lý hướng thiện và thanh cao. Sau này, lễ nhạc của Chu Công, qua sự đề xướng của Khổng Tử và phát triển của Tuân Tử, đã trở thành một hệ thống đồ sộ, không chỉ bao gồm chế độ chính trị mà còn là tiêu chuẩn đạo đức và quy tắc hành vi.

Trong thời kỳ phong kiến của Hoa Hạ, vì sao Nho giáo thắng thế, lấn át Phật giáo và trấn áp Đạo giáo dù lúc ấy Đạo giáo cũng từng có sự phát triển mạnh mẽ?

Phỉ Tiềm, khi giảng giải cho các văn quan về trọng điểm giáo hóa Tây Vực, đã nêu lên bí quyết nằm trong chữ “lễ”. Đó là “dùng tục mà tạo lễ”, tức là tận dụng những phong tục sẵn có của Tây Vực, chọn lấy những phần hợp lý, nâng cao và cải tiến, thêm vào đó tinh hoa của Hoa Hạ, để Tây Vực dễ dàng tiếp nhận, rồi từ từ bị giáo hóa.

“Vậy, làm quan một nơi, phải phân biệt được sinh vật của năm vùng đất…” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Nhưng năm vùng đất kia chẳng phải đá tảng, qua trăm năm vẫn không đổi, dân của đất ấy cũng chẳng phải đồng sắt, theo thời gian sẽ thay đổi. Tây Vực có núi rừng, đồi núi, sông hồ, đồng bằng, liệu có một pháp nào vượt vạn pháp, một công nào mãi bền chăng? Cần phải thuận theo đất đai, thời gian, con người và phong tục mà biến hóa, mới có thể căn cứ vào phong tục mà khiến vạn dân được yên ổn.”

Lễ giáo là vậy, thấm nhuần trong từng ngõ ngách của đời sống. Ở Hoa Hạ, người ta lập ra các thiết chế giáo dục tại các châu, quận, làng, dòng họ, lối xóm, để biến các tư tưởng và đạo đức của Nho gia thành những lễ nghi, như lễ đội mũ trưởng thành, lễ cưới, lễ gặp mặt, lễ uống rượu, lễ bắn cung… khiến mọi người được thấm nhuần lễ nghi qua các nghi thức.

Như lễ đội mũ trưởng thành, sau này có người thấy chỉ đơn giản là mặc Hán phục rồi thực hiện nghi thức đội mũ mà chẳng hiểu được tinh thần sâu xa của lễ.

Liệu lễ đội mũ chỉ là đội chiếc mũ thôi sao?

Lễ trưởng thành thời xưa thực ra mang ý nghĩa “trưởng thành thực thụ”, và khi trưởng thành là tự mình gầy dựng cơ nghiệp. Lễ trưởng thành còn hàm ý phân chia gia đình, hoặc ít nhất là có quyền tự chủ nhất định về kinh tế. Đến trước đó, còn có thể dựa vào cha mẹ, nhưng sau lễ trưởng thành, cần phải tự mình lo cho cuộc sống của chính mình rồi!

“Việc này khác xa việc đơn giản đội một cái mũ tham gia lễ nghi rồi quay lại vòi tiền cha mẹ để kết giao bằng hữu…”

“Ở đất Hoa Hạ thời xưa có lễ tế Mão, Tây Vực nay cũng có lễ tế sống, đều chẳng phải phép tắc tốt lành.” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Lễ có dạy rằng, vẹt biết nói vẫn là loài chim, tinh tinh biết nói cũng vẫn thuộc giống thú. Người mà vô lễ, dù có nói được, chẳng phải lòng dạ chẳng khác gì cầm thú sao? Vậy nên mới cần lễ để phân biệt với loài cầm thú.”

“Người Tây Vực với người Hoa Hạ, cử chỉ khác nhau, lời nói không thông, song có một việc chẳng cần lời vẫn có thể hiểu được…” Phỉ Tiềm mỉm cười nói, “Các vị biết đó là chuyện gì chăng?”

Mọi người suy nghĩ, còn Tiết Bình bên cạnh dường như đã nảy ra ý tưởng nào đó nhưng chưa đủ can đảm để nói ra, cho đến khi Phỉ Tiềm công bố đáp án.

“Là tính người vậy.” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Vui, giận, buồn, vui, ham, lười, tham đều là tính, chẳng khác nào người Hán. Nhân tính vốn sinh ra, những cảm xúc hỉ nộ đều bắt nguồn từ tính. Khi không có vật bên ngoài tác động, thì những điều ẩn giấu không hiện rõ, nhưng khi gặp ngoại vật, tình cảm sẽ biểu lộ. Do đó, cái yêu, cái ghét đều là tính; cái được yêu, cái bị ghét đều là vật. Lòng là chốn chứa trăm mối, dùng cân nhắc để rõ nặng nhẹ, dùng thước đo để biết dài ngắn. Vạn vật là thế, lòng là trên hết. Nơi lòng hướng đến, là nơi tình hướng đến, cũng là nơi tính hướng đến.”

“Lòng không có chí quyết, đợi vật mới khởi, đợi niềm vui mới hành động, đợi thói quen rồi mới định. Bốn bể đều chung tính, nhưng lòng mỗi người khác nhau, bởi do sự giáo hóa tạo nên. Niềm vui, nỗi giận hoặc chưa đủ, hoặc quá mức, có thể điều chỉnh bằng lễ, có thể hướng về chính đạo. Tây Vực này, nên lấy vật gì làm điều hành, lấy vui gì làm hành động, lấy thói gì làm thành thói quen, dùng gì để bù đắp thiếu sót, dùng gì để diệt trừ quá mức, tất cả đều cần luận bàn… Đây là câu hỏi thứ ba.”

Câu hỏi đầu tiên vạch ra phương hướng, câu thứ hai hỏi về biện pháp cụ thể, còn câu thứ ba thì giống như quản lý tiến trình.

Qua ba câu hỏi, mọi người đều sững sờ, cảm thấy như đầu óc căng ra và tê dại.

Phỉ Tiềm hiển nhiên không có ý định yêu cầu họ giải đáp ngay, mà để họ mang câu hỏi về suy ngẫm, rồi ba ngày sau sẽ tiếp tục bàn giảng.

Tây Vực là một thí nghiệm quy mô lớn, những người này như những hạt giống gieo xuống, còn kết quả sẽ nở ra hoa gì, Phỉ Tiềm chỉ có thể kỳ vọng và dẫn dắt, nhưng không thể định đoạt hay thay thế họ.

Chu Lễ là một tác phẩm biểu đạt phương pháp trị quốc thông qua quan chế, nội dung vô cùng phong phú. Phân công của sáu quan trong Chu Lễ đại khái là: Thiên quan quản cung đình, Địa quan quản dân chính, Xuân quan quản tông tộc, Hạ quan quản quân sự, Thu quan quản hình phạt, Đông quan quản xây dựng, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, thật hiếm thấy trong văn thư thượng cổ.

Thật khó tưởng tượng rằng, từ thời xa xưa như vậy, Chu Công đã kiến lập một sơ đồ quan chế đồ sộ, cung cấp cho hậu thế một cách bài bản.

Khi Phỉ Tiềm mới đến Hán triều, hắn chưa thấy Chu Lễ có gì đặc biệt, nhưng khi thật sự đọc sâu, hắn nhận ra rằng hệ thống lễ nghi được ghi lại trong đó vô cùng hệ thống, không chỉ có những đại lễ quốc gia như tế tự, triều kiến, phong quốc, tuần thú, tang lễ, mà còn có những quy chế cụ thể như chế độ đỉnh, nhạc, xa mã, trang phục, lễ ngọc… cũng như các cấp bậc, hình thức và kích thước của các lễ khí.

Vì những lý do nào đó, Chu Lễ khi mới ra đời đã bị cất giấu trong bí phủ, thậm chí nhiều nho giả thân phận cao cũng chưa từng thấy qua, mãi đến Hán đại Thành Đế, khi Lưu Hướng và Lưu Hâm kiểm tra thư tịch trong bí phủ, mới tìm lại được và ghi chép lại…

Do đó, Phỉ Tiềm không khỏi sinh ra lòng suy đoán…

“Thôi được, không nói thêm nữa, kẻo lại có người xầm xì bàn tán rằng không thích thuyết âm mưu cho xem.

Việc bổ túc thì vẫn phải làm thôi.

Dẫu chẳng bàn đến diễn biến sau này của cuốn sách, chỉ luận riêng về nội dung của Chu Lễ cũng đã đủ thấy tầm quan trọng của lễ chế. Nếu như lễ pháp là cái vỏ ngoài, thì lễ nghĩa chính là cái lõi bên trong. Lễ pháp được lập ra dựa trên tinh thần nhân văn, từ hình thức đến tinh thần, từ ngoài vào trong. Đó chính là công dụng lớn nhất của lễ pháp. Nếu chỉ là nghi thức mà không có tư tưởng hợp lý để nương tựa, thì lễ chỉ còn là xác không hồn.

Muốn thâm nhập vào cốt lõi của người Tây Vực, chạm đến tinh thần của họ, trong giai đoạn đầu của lễ giáo phải có một phương thức thật tốt.

Những lễ tiết khô khan và các yêu cầu rườm rà chưa chắc đã thúc đẩy lễ giáo Tây Vực phát triển, thậm chí còn có thể gây tác dụng ngược. Do đó, chỉ nhấn mạnh quy tắc lễ nghi chẳng mấy ích lợi. Người Tây Vực vốn không sống trong môi trường của Hoa Hạ, cũng không có cùng nhận thức như Hoa Hạ, nếu nói với họ về ‘quân tử như ngọc’, e là họ sẽ bật cười cho rằng người Hoa Hạ điên rồi, sao lại mê đắm vài cục đá ở bờ sông…

Sai văn lại đi tìm tòi cách giải quyết là điều cần thiết, nhưng không có nghĩa là trong lòng Phỉ Tiềm không có sách lược.

Khi Lư Dục, Tiết Bình và những người khác đã rời đi, Phỉ Tiềm nói với Giả Hủ, ‘Giáo hóa Tây Vực, lấy nhạc làm khởi đầu.’

Đúng vậy, thủ pháp giáo hóa mà Phỉ Tiềm định dùng ở Tây Vực chính là lấy âm nhạc làm nền tảng.

Hay nói khác đi là ngành ‘giải trí’ chăng?

Giả Hủ cung kính thưa, hiển nhiên là đã dự đoán trước điều này, ‘Chủ công anh minh. Nhạc là sự hòa hợp của trời đất, lễ là trật tự của trời đất. Hòa thì vạn vật được giáo hóa, có trật tự thì muôn vật phân biệt. Tây Vực nói năng không thông suốt, nhưng âm nhạc lại có thể phát huy ưu điểm, khiến dân Tây Vực dù không hiểu ngôn ngữ cũng có thể thấy cái hay, cái lý của Hoa Hạ.’

Phỉ Tiềm gật đầu, ‘Ban đầu lấy tiếng mà hợp, sau dùng âm mà hứng, rồi dùng nhạc để khai sáng. Có thể nói lễ giáo và âm nhạc tương trợ nhau, lễ nhạc hỗ trợ không rời. Lễ có câu, “nhạc do trời tác, lễ do đất định,” chính là ý ấy. Không nhạc thì chẳng thành lễ, không lễ thì chẳng thành nhạc. Trời đất giao hòa, mới vạn sự suôn sẻ. Nhạc không chỉ là những âm thanh chuông vàng, trống lớn, hay đàn ca. Nhạc là thứ cần trọng ở đạo nghĩa, phát huy cái đức.

Người Hoa Hạ vốn thích đi đến cực đoan, chẳng rõ thói ấy hình thành từ bao giờ, khi tốt thì cho gì cũng tốt, lúc xấu thì cho gì cũng xấu. Một nhóm học giả già ngồi chỉ trích nhạc trụy lạc, thế mà lại bị loại nhạc ấy mê hoặc đến bất ngờ.

Nếu nói về lý luận âm nhạc, thực ra Hoa Hạ sớm đã đi trước toàn thế giới, và còn có nền tảng lý luận rất cao.

Trong lý luận âm nhạc sơ khai của Hoa Hạ, thanh, âm, và nhạc là ba khái niệm khác biệt.

Phân biệt giữa thanh và âm ở chỗ âm có tiết tấu, cao độ, còn thanh thì không. Do đó, lý luận âm nhạc Hoa Hạ coi các thanh thường là tạp âm, trong khi các âm có tiết tấu, nhịp điệu mới gọi là âm. Còn nhạc là thứ mang nội hàm, có ý nghĩa. Con người và côn trùng, thú vật đều có thính giác, cảm nhận được âm thanh từ bên ngoài, nhưng côn trùng và thú chỉ đạt đến mức thanh, còn con người có đòi hỏi cao hơn, vì đó cũng là một trong những dấu hiệu phân biệt người và thú.

Trong Lạc Ký có câu, ‘Biết thanh mà không biết âm, tức là cầm thú.’ Dẫu có đôi phần cực đoan, nhưng thực ra cũng có lý lẽ, những kẻ chỉ biết đòi hỏi thỏa mãn giác quan thì khác gì cầm thú? Còn nhân loại ấy mà… dĩ nhiên cũng có những người chỉ muốn cảm giác thoải mái, vì rốt cuộc người cũng có bản năng thú tính.”

“‘Dân Tây Vực tuy cũng có nhạc khí, có thể tạo ra âm thanh, nhưng chưa đạt đến âm nhạc thực thụ, càng không có những chương nhạc tinh tế,’ Phỉ Tiềm từ tốn nói, ‘Tình cảm nằm sâu trong lòng mà bộc ra thành lời nói, nếu lời nói không đủ thì thở than, nếu thở than không đủ thì hát ca, và nếu hát ca vẫn không đủ thì vung tay múa chân, giậm chân theo nhịp. Quan sát dân Tây Vực, thấy họ thường múa chân vung tay, rõ là ca hát của họ chưa đủ. Đây chính là cơ hội có thể nắm bắt.’

Không chỉ dân Tây Vực, mà những bộ lạc chưa có chữ viết và văn hóa riêng như Tây Khương cũng ưa thích nhảy múa.

Người có học, khi ngắm sa mạc thì cảm hứng mà nói ‘Trường hà lạc nhật viên,’ hay cảm gió mà ngâm ‘Nhập trúc vạn can tà’. Còn những người không mấy hiểu biết, hoặc ít học, e rằng chỉ có thể thốt lên hai chữ đơn giản…

Dân Tây Vực, đôi khi họ giơ cao đuôi bò, hoặc vung tay trong chiếc áo da, bằng những động tác đơn sơ để bày tỏ tâm tình của mình. Nhìn có vẻ vui vẻ, nhưng thực ra lại đáng thương, bởi vì cách để bộc lộ cảm xúc của họ quá ít ỏi.

Đây chính là cơ hội.

Nếu trong đó ta thêm vào những sự dẫn dắt từ từ thì sao?

Giống như những thủ đoạn mà Mi Đế dùng ở hậu thế vậy…

Tây Vực đã ở đây, trận địa cũng đã ở đây, nếu Hoa Hạ không chiếm lĩnh, tất nhiên sẽ có kẻ khác đến chiếm lĩnh.

Dưới tác động của ngoại vật, lòng người sẽ chuyển động.

Do cường độ của ngoại vật khác nhau, tình cảm của con người biểu hiện ra các tầng bậc khác nhau. Âm nhạc xuất phát từ lòng người, nhưng cũng có thể trở thành một loại ngoại vật mới, gây tác động ngược lại đến lòng người. Trong cuốn Nhạc, từ thời sơ khai của Hoa Hạ, đã có viết rõ ràng rằng, ‘Phàm âm là từ lòng người mà sinh. Tình động ở trong, nên biểu lộ ra ngoài thành tiếng. Tiếng có hình thức, gọi là âm.’

Về mặt này, Tây Vực hầu như là một khoảng trống. Vì vậy, khi hòa thượng đến, mang theo pháp khí và làm cho tiếng chuông gõ vang lên, dân Tây Vực lập tức bị cuốn hút, rồi chẳng mấy chốc họ chấp nhận giáo lý của Phật giáo, sinh ra tín ngưỡng.

Vậy nếu ta thay hòa thượng kia, hoặc thay đổi nội dung bên trong thì sao…

Âm nhạc có nhiều loại, có thể là trang nhã hoặc mạnh mẽ, có thể là tinh tế hoặc thô mộc, mỗi loại đều có thể đem đến cho con người những cảm nhận khác nhau, dẫn dắt sự chuyển biến tình cảm của con người. Giống như ở hậu thế, cổ điển và nhạc rock đều thuộc phạm trù âm nhạc, nhưng cảm giác chúng mang lại cho người nghe là hoàn toàn khác biệt.

Có người thích cổ điển, có người chỉ thích nhạc rock, sự khác biệt này phần lớn do môi trường quyết định, chỉ một phần nhỏ do bẩm sinh.

Vì thế, Phỉ Tiềm muốn kiến tạo một môi trường Tây Vực mới, chiếm lĩnh những vùng đất lẽ ra phải chiếm lĩnh từ lâu, chứ không phải nhìn bọn hòa thượng, hay ai khác từ bên ngoài trắng trợn xâm chiếm vùng đất đáng ra thuộc về Hoa Hạ.

Người xưa thật khó nhọc biết bao! Trong bối cảnh sản xuất còn lạc hậu, vật tư còn thiếu thốn, thế mà vẫn lo nghĩ cho hậu nhân, chuẩn bị bao lý luận và phương pháp. Vậy mà, hậu nhân Hoa Hạ lại bỏ mặc chúng, thậm chí vứt bỏ như đồ cũ.

Suy nghĩ một hồi, Phỉ Tiềm lại nói với Giả Hủ: ‘Ở Tây Vực, dùng âm thanh, âm nhạc làm chính. Nơi thôn dã, nên dùng âm thanh kỳ lạ, độc đáo; còn trong thành thị, ưa chuộng âm thanh nhã nhặn, hòa hợp. Người nơi dã ngoại, lao lực mệt mỏi, cần có âm thanh kỳ quái, thúc đẩy ý chí, khích lệ tinh thần; còn dân thành thị thì cần dạy dỗ mà học lấy sự hài hòa, giữ âm thanh trật tự không loạn. Như có câu, quân tử vui theo đạo, tiểu nhân vui theo dục, không cần luận cổ hay kim, chỉ cần là chính đáng mà thôi.’”

Giả Hủ gật đầu đáp: “Chủ công nói rất phải. Cuộc tranh biện giữa cổ nhạc và tân nhạc thực chẳng lợi gì cho giáo hóa, ngược lại còn gây thêm rối ren. Âm nhạc vốn là một phần của đạo giáo hóa, lấy tiếng mà dẫn dắt, lấy nhạc mà hấp dẫn, đó mới có thể gọi là nhạc. Nếu chỉ là tiếng đơn thuần, thì không đủ để luận về nhạc. Ai hiểu nhạc, cũng không nên khinh rẻ người chỉ hiểu tiếng. Giống như kẻ biết trăm chữ không thể sáng tác văn chương trau chuốt, mà người làm ra văn chương lại không cần cười nhạo kẻ biết trăm chữ vậy.”

Phỉ Tiềm gật đầu, “Hay lắm. Tranh cãi giữa cổ nhạc và tân nhạc cũng tựa như cuộc tranh biện giữa cổ văn và kim văn, đều không đáng để lấy.”

Cổ nhạc là loại nhạc lưu truyền từ thời các vua Viêm Hoàng, Nghiêu, Thuấn, mang tính nhã nhạc như khúc nhạc “Hàm Trì” của Hoàng Đế, nhạc “Đại Chương” của Nghiêu, nhạc “Thiều” của Thuấn, nhạc “Hạ” của Vũ; tất cả đều mang tiết tấu chậm rãi, trang nghiêm và giàu ý nghĩa. Còn tân nhạc xuất hiện vào thời Chiến Quốc, tiêu biểu là âm nhạc Trịnh và Vệ, mang nhiều sắc màu phù phiếm, không có nội hàm đặc biệt.

Cuộc tranh giữa cổ nhạc và tân nhạc thực ra còn sớm hơn cả tranh chấp giữa cổ văn và kim văn, đã có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, mà gốc rễ của tranh biện này vẫn là vấn đề chính trị. Vì sĩ nhân Hoa Hạ tin rằng âm nhạc và chính trị có mối tương thông, có thể dùng để đánh giá việc trị quốc.

“Trong Kinh Thi, không có đoạn nào chê bai âm nhạc phù phiếm của Trịnh Vệ mà bỏ qua văn chương của nó, cũng không vì âm nhạc trầm hùng của tiền Tần mà ngần ngại ghi lại ca từ,” Phỉ Tiềm trầm giọng nói, “Đạo âm nhạc có thể nhìn âm thanh mà biết phong tục, nhìn chính trị mà hiểu rõ chủ nhân của nó. Chu Công có thể lấy nhạc Chu Nam làm phong, sao Đại Hán lại không thể lấy nhạc phong của Tây Vực?”

Giả Hủ gật đầu tán thành, tiếp lời: “Đúng vậy. Dùng âm nhạc để đánh giá chính trị, xưa nay đều có thể áp dụng. Bậc quân chủ là chủ của muôn dân, điều gì chủ ưa chuộng, dân chúng tất sẽ theo. Nếu dụng cụ trong nước vượt quá chế độ, có thể thấy sự xa xỉ của quốc gia, không tuân theo quy củ, ngày mất nước sẽ không còn xa. Xưa có lời rằng, nhà Tống suy tàn thì sáng tác ‘Thiên Chung’, nhà Tề suy tàn thì sáng tác ‘Đại Lữ’, nhà Sở suy tàn thì sáng tác âm nhạc của Vu. Dân Tây Vực đa phần nghe những khúc nhạc bi ai, đủ thấy các quốc chủ mất chính đạo, dân chúng ly tán, đây chính là cơ hội ta có thể lợi dụng.”

Khổng Tử đã từng nói, muốn hiểu về một quốc gia, chỉ cần nhìn vào âm nhạc mà dân chúng thường nghe.

Dĩ nhiên, thời cổ xưa chỉ có âm nhạc làm hình thức giải trí chính…

“‘Muốn cải phong đổi tục, không gì tốt hơn là nhạc,’” Phỉ Tiềm nói, “Việc giáo hóa Nam Hung Nô, vì nước nhỏ nên có thể chia cắt mà thi hành, nhưng Tây Vực đất rộng, các quốc gia hỗn tạp, cần phải dùng phương pháp mới. Lấy Phật giáo làm lực kéo, làm suy yếu ý chí của họ; dùng âm nhạc làm điểm tụ hội, xóa bỏ sự ngăn cách; lấy thương nghiệp làm mồi nhử, làm cao ngạo tầng lớp trên; và lấy giáo dục làm phương tiện tiến thân, từ đó thu hút lòng dân…”

“Thái Sử Tử Nghĩa tính tình thẳng thắn, khó lòng lo liệu mấy chuyện vụn vặt, nên ta chỉ nói về bốn hạng người, đạo của nông công, lấy Vũ Uy trấn áp, diệt trừ loạn lạc như lửa cháy lan đồng nội… Còn phương pháp giáo hóa, cách thức thẩm thấu…” Phỉ Tiềm nhìn Giả Hủ, “Chỉ có Văn Hòa mới có thể thấu suốt, hiểu rõ huyền cơ, từ đó dùng văn lấn dẫn đạo, chiêu nạp thân thiện, tiêu trừ thù hận, như nước thấm mà lan xuống… Văn và võ, nước và lửa tương hỗ. Mười năm sẽ định, nhanh thì mười năm, chậm thì hai ba chục năm, Tây Vực sẽ hoàn toàn thuộc về Hoa Hạ…”

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
Hieu Le
23 Tháng tám, 2020 09:33
lý do lớn nhất Trung Quốc cường thịnh sớm mà thụt lùi là Nho giáo. Nho giáo quá thành công trong xã hội phong kiến, nên xã hội phong kiến TQ ổn định hơn, hình thành nên chế độ pk tập quyền. Và đỉnh cao của nho giáo là chế độ khoa cử đặc biệt là văn bát cổ do Lưu Bá Ôn thời Minh tạo ra.
xuongxuong
22 Tháng tám, 2020 21:57
Trang Tử viết Nam Hoa Kinh, Thiên chi thương thương, kỳ chính sắc da, kỳ viễn nhi, vô sở chí cực da? Kỳ thị hạ giả, diệc nhược thị tấc dĩ hĩ. Núi cao mấy cũng thua trời một tầng mây, ngươi ta cũng là ô hợp chi chúng vậy.
Cauopmuoi00
22 Tháng tám, 2020 21:56
moá phỉ tiềm nhập tam quốc là cái biến số lớn *** rồi mà vẫn nhiều chuyện theo đúng quán tính lịch sử, ko biết là con tác cố ý hay hết ý viết
Nhu Phong
22 Tháng tám, 2020 21:36
Say quá không thể viết rõ ý của tác....Nói tóm lại là đến giờ vẫn chưa hiểu ý tác là gì... Đê ka mờ nó, chắc lại dùng Hán tự hay gì đấy.... Anh em đọc và tự hiểu.... Nhũ say ngủ đây
trieuvan84
22 Tháng tám, 2020 13:55
con tác trình độ thủy văn như đập tam hiệp, tới Lỗ Tấn đồng chí cũng không buông tha :))))
Huy Quốc
22 Tháng tám, 2020 13:03
Chương mới hay quá, đọc chuyện này thực sự có thiện cảm vs hhđ, vừa trung vừa giỏi, hhđ chặt chân con mình cũng là bắt buộc để bảo vệ con mình rồi, tuy tàn nhẫn nhưng lại là cách duy nhất, đoạn miêu tả tâm lý hhđ thật sự hay
Cauopmuoi00
22 Tháng tám, 2020 05:22
đọc truyện tam quốc nào đến phần của anh lưu chạy chạy cũng nhịn ko được một cỗ khinh bỉ cảm giác
Aibidienkt7
21 Tháng tám, 2020 18:01
Lại đói thuốc. Đang khúc hay lai đứt.. hận con tác
binto1123
21 Tháng tám, 2020 15:34
đúng rồi. chỉ nói thái tổ k nói triều đại nào thì chắc chắn là Mao
binto1123
21 Tháng tám, 2020 15:21
hình như thời đó k có cừu
Cauopmuoi00
21 Tháng tám, 2020 13:27
mà tinh thần đại hán thì sao hồi đấy tth quét ngang chư quốc nó ko tự hào thì ai? đọc truyện tam quốc còn thở ra được câu đấy nghe trẻ con :))
Huy Quốc
21 Tháng tám, 2020 12:57
Chuyện nước ngta, viết về sử nhà ngta, ko cho ngta tự hào thì chả lẽ bắt ngta tự nhục :) nếu ko thích thẩm du thì kiếm chuyện nào về đại việt mà đọc :)
trieuvan84
21 Tháng tám, 2020 10:20
Viên đại đầu là chỉ Dân Quốc Thỏ trắng là chỉ Trung Cộng Bạch Tượng thì là chỉ Ấn Độ Còn lại thì nó đánh Đông Lào cách thủ đô chỉ vài chục km đó thôi. Mà đúng là đánh xong chiếm xong sau đó mần gì? gườm gườm nhau lâu lâu chiếm vài cái đảo, lấn vài m núi lấy tài nguyên còn hơn phải đi trị tụi điêu dân
quangtri1255
21 Tháng tám, 2020 09:43
thỏ trắng đấu khỉ đấu voi là ý gì hở các đạo hữu?
Trần Thiện
21 Tháng tám, 2020 09:29
chính vì VN mình đã có nền văn hiến riêng, thành lập dc bản sắc của một dân tộc nên TQ mới thất bại trong việc đồng hóa đấy thôi. Còn ông kia tôi ko nói Tần triệu sụp đổ là do đốt sách chôn nho nhé, tần triều sụp là do TTH chết thôi. Còn về đốt sách chôn nho chỉ là một biểu tượng, THH tàn bạo??? giết chóc??? đơn giản là do TTH ko thoả hiệp với lũ quý tộc cũ, giết sạch những kẻ phản kháng, thế ông nghĩ ai phản kháng??? mấy ông nông dân chân đất chắc
Hoang Ha
21 Tháng tám, 2020 09:25
Triệu vân 84. Mấy ông vn tinh thần đông a các thứ k biết phát huy lại đi kì thị tinh thần đại hán. K phát huy đông a thì ít ra cũng phải phát huy xã hội chủ nghĩa. Đúng k ông? Đây thì cái đéo gì cũng chê xong suốt ngày chạy theo mấy cái clip sex người nổi tiếng với lại tình hình show bitches. Xong giang hồ mạng. Yusuke. Tôi nói thật, yêu nước đéo có gì xấu. Nó viết về nước nó tốt nước nó đẹp có gì sai? Hay là phải bôi nhọ đất nước và giá trị văn hoá cổ truyền như mấy thanh niên tự nhục vn mới là đúng? Ông đéo thích đại háng thẩm du thì viết truyện phát huy tinh thần đại việt đi :)). Hay chỉ ở đó chỉ tay 5 ngón rồi xàm *** là nhanh Quan ngại sâu sắc về tương lai đất việt
quangtri1255
21 Tháng tám, 2020 08:48
bác vào group search Đinh Quang Trí, mình có check các địa điểm lãnh địa của Tiềm theo gg map
trieuvan84
21 Tháng tám, 2020 08:29
Thực ra thì có cái hay cũng lại có cái dở. Việc gì cũng có 2 mặt của nó. Xét cho cùng thì cách kết minh tốt nhất là bắt con của đối phương về uy hiếp, mà hợp thức hoá tốt nhất là thông gia
trieuvan84
21 Tháng tám, 2020 08:26
Tam quốc chắc là kể về Đông Lào, Đông Di hay Man Bắc phân tranh trung nguyên? Quốc hiệu là Đại Hán mà không tinh thần thì là cái gì? Chả lẽ viết Hợp Chúng quốc mà lại đi tả Chủ nghĩa Đại đồng, xã hội hài hoà, vô sản tối thượng? Đùa :)))))
yusuke
21 Tháng tám, 2020 07:54
truyện về tam quốc mà tinh thần đại háng ghê quá, thẩm du quá mạnh, lại còn câu chương dài dòng.
Hoang Ha
21 Tháng tám, 2020 03:40
Gia cát tất thành. Triệu đà xâm lược âu lạc, đóng đô ở phiên ngung, quảng châu hiện tại, đặt tên nước là nam việt. Cả một vùng quảng đều là người việt, gọi là bách việt. Ở quảng tây là sơn việt, quảng đông là mân việt. Cho đến về sau nam việt mất nước, đặt ra giao châu, mới chia làm quận giao chỉ, quận cửu chân, quận hợp phố các loại 9 quận thì mới hình thành nên ranh giới gần đúng với biên giới phía bắc của việt nam hiện tại. Trước đây triệu đà đc công nhận là khai quốc hoàng đế của việt nam đấy. Địa vị trong sử cổ vn ngang ngửa với tần thuỷ hoàng trong sử cổ của tq. Từ triệu, đinh, lý, trần bao đời xây nền độc lập. Đến hán, đường, tống, nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau. Song hào kiệt đời nào cũng có. Trích bình ngô đại cáo-nguyễn trãi.
Cauopmuoi00
21 Tháng tám, 2020 03:09
cái trò thông gia của sĩ tộc vẫn truyền tới bh tinh túy :))
Cauopmuoi00
21 Tháng tám, 2020 02:25
còn tần triều sụp đổ cũng do ko thoả hiệp dc lợi ích lũ vs quý tộc cũ, hai là do tth chết sớm thằng con tài ko bằng cha chống sao dc bọn này chứ đốt sách chôn nho là lý do tần triều sụp đổ thi quá phi lí
Cauopmuoi00
21 Tháng tám, 2020 02:20
*** ông này đọc lướt hả, đốt sách chôn người tài là ngôn từ của đổng trọng dĩnh, theo tác nói thì tth đốt thi vs thư, áp chế bách gia để nâng pháp gia trị quốc, nên mới dẫn đến những phe phái lớn như nho gia bất mãn
Trần Thiện
20 Tháng tám, 2020 23:04
Sau khi TTH chết Hạng Vũ nổi lên <=== đại biểu giai cấp cựu quý tộc (cái đám bị TTH giết ấy) vs Lưu Bang ( bình dân áo vải). Cái kết là Lưu Bang win, dấu chấm hết cho tụi kia. TTH thống nhất địa vực quốc gia, LB thống nhất cả một dân tộc (từ người tề, hàn, tấn,... chỉ còn người Hán)
BÌNH LUẬN FACEBOOK