Mục lục
Quỷ Tam Quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

“Thánh hiền xưa trị dân, theo đạo của dân mà làm. Như Đại Vũ dẫn dòng nước, theo đạo của nước; Tạo Phụ thuần dưỡng ngựa, theo đạo của ngựa; Hậu Tắc làm ruộng, theo đạo của đất. Vạn vật đều có đạo lý riêng. Vậy đạo lý của Tây Vực là ở đâu?”

Phỉ Tiềm đưa mắt nhìn quanh, trầm giọng nói, “Nằm trong hai chữ ‘lễ tục’.”

Lễ tục, lễ giáo.

Lễ giáo ăn người.

Đây gần như là một sự thống nhất trong tư tưởng của những người hậu thế Hoa Hạ, nhưng có bao nhiêu người thực sự tìm hiểu lễ giáo ‘ăn’ thế nào, hay chỉ nghe theo người khác mà lặp lại? Có người chỉ nói theo kẻ khác rằng lễ giáo ăn người, nhưng liệu mấy ai thật sự suy ngẫm và tìm hiểu? Hay chỉ đơn giản vì không cam lòng với vị thế của mình mà sinh ra lòng oán trách?

Phỉ Tiềm ở Tây Vực, quyết định khởi xướng giáo hóa.

Muốn giáo hóa, đương nhiên không thể một mình hắn ta lặn lội làm hết mọi việc. Những văn quan vừa đến Tây Vực là lực lượng trợ giúp đắc lực và quan trọng nhất của hắn.

Lễ giáo cũng là công cụ, giống như một lưỡi dao, có thể dùng để răn dạy dân trong nước, nhưng cũng có thể hướng ra ngoài, trở thành xiềng xích tinh thần cho người ngoại quốc.

Chu Công đã đặt định lễ nghi và âm nhạc, đó là khởi nguồn quan trọng của tinh thần văn hóa Hoa Hạ cổ xưa, với ý niệm tốt đẹp. Giống như đạo lý của Khổng Tử, Lão Tử, hay Phật Đà, thuở ban đầu đều là những giáo lý hướng thiện và thanh cao. Sau này, lễ nhạc của Chu Công, qua sự đề xướng của Khổng Tử và phát triển của Tuân Tử, đã trở thành một hệ thống đồ sộ, không chỉ bao gồm chế độ chính trị mà còn là tiêu chuẩn đạo đức và quy tắc hành vi.

Trong thời kỳ phong kiến của Hoa Hạ, vì sao Nho giáo thắng thế, lấn át Phật giáo và trấn áp Đạo giáo dù lúc ấy Đạo giáo cũng từng có sự phát triển mạnh mẽ?

Phỉ Tiềm, khi giảng giải cho các văn quan về trọng điểm giáo hóa Tây Vực, đã nêu lên bí quyết nằm trong chữ “lễ”. Đó là “dùng tục mà tạo lễ”, tức là tận dụng những phong tục sẵn có của Tây Vực, chọn lấy những phần hợp lý, nâng cao và cải tiến, thêm vào đó tinh hoa của Hoa Hạ, để Tây Vực dễ dàng tiếp nhận, rồi từ từ bị giáo hóa.

“Vậy, làm quan một nơi, phải phân biệt được sinh vật của năm vùng đất…” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Nhưng năm vùng đất kia chẳng phải đá tảng, qua trăm năm vẫn không đổi, dân của đất ấy cũng chẳng phải đồng sắt, theo thời gian sẽ thay đổi. Tây Vực có núi rừng, đồi núi, sông hồ, đồng bằng, liệu có một pháp nào vượt vạn pháp, một công nào mãi bền chăng? Cần phải thuận theo đất đai, thời gian, con người và phong tục mà biến hóa, mới có thể căn cứ vào phong tục mà khiến vạn dân được yên ổn.”

Lễ giáo là vậy, thấm nhuần trong từng ngõ ngách của đời sống. Ở Hoa Hạ, người ta lập ra các thiết chế giáo dục tại các châu, quận, làng, dòng họ, lối xóm, để biến các tư tưởng và đạo đức của Nho gia thành những lễ nghi, như lễ đội mũ trưởng thành, lễ cưới, lễ gặp mặt, lễ uống rượu, lễ bắn cung… khiến mọi người được thấm nhuần lễ nghi qua các nghi thức.

Như lễ đội mũ trưởng thành, sau này có người thấy chỉ đơn giản là mặc Hán phục rồi thực hiện nghi thức đội mũ mà chẳng hiểu được tinh thần sâu xa của lễ.

Liệu lễ đội mũ chỉ là đội chiếc mũ thôi sao?

Lễ trưởng thành thời xưa thực ra mang ý nghĩa “trưởng thành thực thụ”, và khi trưởng thành là tự mình gầy dựng cơ nghiệp. Lễ trưởng thành còn hàm ý phân chia gia đình, hoặc ít nhất là có quyền tự chủ nhất định về kinh tế. Đến trước đó, còn có thể dựa vào cha mẹ, nhưng sau lễ trưởng thành, cần phải tự mình lo cho cuộc sống của chính mình rồi!

“Việc này khác xa việc đơn giản đội một cái mũ tham gia lễ nghi rồi quay lại vòi tiền cha mẹ để kết giao bằng hữu…”

“Ở đất Hoa Hạ thời xưa có lễ tế Mão, Tây Vực nay cũng có lễ tế sống, đều chẳng phải phép tắc tốt lành.” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Lễ có dạy rằng, vẹt biết nói vẫn là loài chim, tinh tinh biết nói cũng vẫn thuộc giống thú. Người mà vô lễ, dù có nói được, chẳng phải lòng dạ chẳng khác gì cầm thú sao? Vậy nên mới cần lễ để phân biệt với loài cầm thú.”

“Người Tây Vực với người Hoa Hạ, cử chỉ khác nhau, lời nói không thông, song có một việc chẳng cần lời vẫn có thể hiểu được…” Phỉ Tiềm mỉm cười nói, “Các vị biết đó là chuyện gì chăng?”

Mọi người suy nghĩ, còn Tiết Bình bên cạnh dường như đã nảy ra ý tưởng nào đó nhưng chưa đủ can đảm để nói ra, cho đến khi Phỉ Tiềm công bố đáp án.

“Là tính người vậy.” Phỉ Tiềm chậm rãi nói, “Vui, giận, buồn, vui, ham, lười, tham đều là tính, chẳng khác nào người Hán. Nhân tính vốn sinh ra, những cảm xúc hỉ nộ đều bắt nguồn từ tính. Khi không có vật bên ngoài tác động, thì những điều ẩn giấu không hiện rõ, nhưng khi gặp ngoại vật, tình cảm sẽ biểu lộ. Do đó, cái yêu, cái ghét đều là tính; cái được yêu, cái bị ghét đều là vật. Lòng là chốn chứa trăm mối, dùng cân nhắc để rõ nặng nhẹ, dùng thước đo để biết dài ngắn. Vạn vật là thế, lòng là trên hết. Nơi lòng hướng đến, là nơi tình hướng đến, cũng là nơi tính hướng đến.”

“Lòng không có chí quyết, đợi vật mới khởi, đợi niềm vui mới hành động, đợi thói quen rồi mới định. Bốn bể đều chung tính, nhưng lòng mỗi người khác nhau, bởi do sự giáo hóa tạo nên. Niềm vui, nỗi giận hoặc chưa đủ, hoặc quá mức, có thể điều chỉnh bằng lễ, có thể hướng về chính đạo. Tây Vực này, nên lấy vật gì làm điều hành, lấy vui gì làm hành động, lấy thói gì làm thành thói quen, dùng gì để bù đắp thiếu sót, dùng gì để diệt trừ quá mức, tất cả đều cần luận bàn… Đây là câu hỏi thứ ba.”

Câu hỏi đầu tiên vạch ra phương hướng, câu thứ hai hỏi về biện pháp cụ thể, còn câu thứ ba thì giống như quản lý tiến trình.

Qua ba câu hỏi, mọi người đều sững sờ, cảm thấy như đầu óc căng ra và tê dại.

Phỉ Tiềm hiển nhiên không có ý định yêu cầu họ giải đáp ngay, mà để họ mang câu hỏi về suy ngẫm, rồi ba ngày sau sẽ tiếp tục bàn giảng.

Tây Vực là một thí nghiệm quy mô lớn, những người này như những hạt giống gieo xuống, còn kết quả sẽ nở ra hoa gì, Phỉ Tiềm chỉ có thể kỳ vọng và dẫn dắt, nhưng không thể định đoạt hay thay thế họ.

Chu Lễ là một tác phẩm biểu đạt phương pháp trị quốc thông qua quan chế, nội dung vô cùng phong phú. Phân công của sáu quan trong Chu Lễ đại khái là: Thiên quan quản cung đình, Địa quan quản dân chính, Xuân quan quản tông tộc, Hạ quan quản quân sự, Thu quan quản hình phạt, Đông quan quản xây dựng, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội, thật hiếm thấy trong văn thư thượng cổ.

Thật khó tưởng tượng rằng, từ thời xa xưa như vậy, Chu Công đã kiến lập một sơ đồ quan chế đồ sộ, cung cấp cho hậu thế một cách bài bản.

Khi Phỉ Tiềm mới đến Hán triều, hắn chưa thấy Chu Lễ có gì đặc biệt, nhưng khi thật sự đọc sâu, hắn nhận ra rằng hệ thống lễ nghi được ghi lại trong đó vô cùng hệ thống, không chỉ có những đại lễ quốc gia như tế tự, triều kiến, phong quốc, tuần thú, tang lễ, mà còn có những quy chế cụ thể như chế độ đỉnh, nhạc, xa mã, trang phục, lễ ngọc… cũng như các cấp bậc, hình thức và kích thước của các lễ khí.

Vì những lý do nào đó, Chu Lễ khi mới ra đời đã bị cất giấu trong bí phủ, thậm chí nhiều nho giả thân phận cao cũng chưa từng thấy qua, mãi đến Hán đại Thành Đế, khi Lưu Hướng và Lưu Hâm kiểm tra thư tịch trong bí phủ, mới tìm lại được và ghi chép lại…

Do đó, Phỉ Tiềm không khỏi sinh ra lòng suy đoán…

“Thôi được, không nói thêm nữa, kẻo lại có người xầm xì bàn tán rằng không thích thuyết âm mưu cho xem.

Việc bổ túc thì vẫn phải làm thôi.

Dẫu chẳng bàn đến diễn biến sau này của cuốn sách, chỉ luận riêng về nội dung của Chu Lễ cũng đã đủ thấy tầm quan trọng của lễ chế. Nếu như lễ pháp là cái vỏ ngoài, thì lễ nghĩa chính là cái lõi bên trong. Lễ pháp được lập ra dựa trên tinh thần nhân văn, từ hình thức đến tinh thần, từ ngoài vào trong. Đó chính là công dụng lớn nhất của lễ pháp. Nếu chỉ là nghi thức mà không có tư tưởng hợp lý để nương tựa, thì lễ chỉ còn là xác không hồn.

Muốn thâm nhập vào cốt lõi của người Tây Vực, chạm đến tinh thần của họ, trong giai đoạn đầu của lễ giáo phải có một phương thức thật tốt.

Những lễ tiết khô khan và các yêu cầu rườm rà chưa chắc đã thúc đẩy lễ giáo Tây Vực phát triển, thậm chí còn có thể gây tác dụng ngược. Do đó, chỉ nhấn mạnh quy tắc lễ nghi chẳng mấy ích lợi. Người Tây Vực vốn không sống trong môi trường của Hoa Hạ, cũng không có cùng nhận thức như Hoa Hạ, nếu nói với họ về ‘quân tử như ngọc’, e là họ sẽ bật cười cho rằng người Hoa Hạ điên rồi, sao lại mê đắm vài cục đá ở bờ sông…

Sai văn lại đi tìm tòi cách giải quyết là điều cần thiết, nhưng không có nghĩa là trong lòng Phỉ Tiềm không có sách lược.

Khi Lư Dục, Tiết Bình và những người khác đã rời đi, Phỉ Tiềm nói với Giả Hủ, ‘Giáo hóa Tây Vực, lấy nhạc làm khởi đầu.’

Đúng vậy, thủ pháp giáo hóa mà Phỉ Tiềm định dùng ở Tây Vực chính là lấy âm nhạc làm nền tảng.

Hay nói khác đi là ngành ‘giải trí’ chăng?

Giả Hủ cung kính thưa, hiển nhiên là đã dự đoán trước điều này, ‘Chủ công anh minh. Nhạc là sự hòa hợp của trời đất, lễ là trật tự của trời đất. Hòa thì vạn vật được giáo hóa, có trật tự thì muôn vật phân biệt. Tây Vực nói năng không thông suốt, nhưng âm nhạc lại có thể phát huy ưu điểm, khiến dân Tây Vực dù không hiểu ngôn ngữ cũng có thể thấy cái hay, cái lý của Hoa Hạ.’

Phỉ Tiềm gật đầu, ‘Ban đầu lấy tiếng mà hợp, sau dùng âm mà hứng, rồi dùng nhạc để khai sáng. Có thể nói lễ giáo và âm nhạc tương trợ nhau, lễ nhạc hỗ trợ không rời. Lễ có câu, “nhạc do trời tác, lễ do đất định,” chính là ý ấy. Không nhạc thì chẳng thành lễ, không lễ thì chẳng thành nhạc. Trời đất giao hòa, mới vạn sự suôn sẻ. Nhạc không chỉ là những âm thanh chuông vàng, trống lớn, hay đàn ca. Nhạc là thứ cần trọng ở đạo nghĩa, phát huy cái đức.

Người Hoa Hạ vốn thích đi đến cực đoan, chẳng rõ thói ấy hình thành từ bao giờ, khi tốt thì cho gì cũng tốt, lúc xấu thì cho gì cũng xấu. Một nhóm học giả già ngồi chỉ trích nhạc trụy lạc, thế mà lại bị loại nhạc ấy mê hoặc đến bất ngờ.

Nếu nói về lý luận âm nhạc, thực ra Hoa Hạ sớm đã đi trước toàn thế giới, và còn có nền tảng lý luận rất cao.

Trong lý luận âm nhạc sơ khai của Hoa Hạ, thanh, âm, và nhạc là ba khái niệm khác biệt.

Phân biệt giữa thanh và âm ở chỗ âm có tiết tấu, cao độ, còn thanh thì không. Do đó, lý luận âm nhạc Hoa Hạ coi các thanh thường là tạp âm, trong khi các âm có tiết tấu, nhịp điệu mới gọi là âm. Còn nhạc là thứ mang nội hàm, có ý nghĩa. Con người và côn trùng, thú vật đều có thính giác, cảm nhận được âm thanh từ bên ngoài, nhưng côn trùng và thú chỉ đạt đến mức thanh, còn con người có đòi hỏi cao hơn, vì đó cũng là một trong những dấu hiệu phân biệt người và thú.

Trong Lạc Ký có câu, ‘Biết thanh mà không biết âm, tức là cầm thú.’ Dẫu có đôi phần cực đoan, nhưng thực ra cũng có lý lẽ, những kẻ chỉ biết đòi hỏi thỏa mãn giác quan thì khác gì cầm thú? Còn nhân loại ấy mà… dĩ nhiên cũng có những người chỉ muốn cảm giác thoải mái, vì rốt cuộc người cũng có bản năng thú tính.”

“‘Dân Tây Vực tuy cũng có nhạc khí, có thể tạo ra âm thanh, nhưng chưa đạt đến âm nhạc thực thụ, càng không có những chương nhạc tinh tế,’ Phỉ Tiềm từ tốn nói, ‘Tình cảm nằm sâu trong lòng mà bộc ra thành lời nói, nếu lời nói không đủ thì thở than, nếu thở than không đủ thì hát ca, và nếu hát ca vẫn không đủ thì vung tay múa chân, giậm chân theo nhịp. Quan sát dân Tây Vực, thấy họ thường múa chân vung tay, rõ là ca hát của họ chưa đủ. Đây chính là cơ hội có thể nắm bắt.’

Không chỉ dân Tây Vực, mà những bộ lạc chưa có chữ viết và văn hóa riêng như Tây Khương cũng ưa thích nhảy múa.

Người có học, khi ngắm sa mạc thì cảm hứng mà nói ‘Trường hà lạc nhật viên,’ hay cảm gió mà ngâm ‘Nhập trúc vạn can tà’. Còn những người không mấy hiểu biết, hoặc ít học, e rằng chỉ có thể thốt lên hai chữ đơn giản…

Dân Tây Vực, đôi khi họ giơ cao đuôi bò, hoặc vung tay trong chiếc áo da, bằng những động tác đơn sơ để bày tỏ tâm tình của mình. Nhìn có vẻ vui vẻ, nhưng thực ra lại đáng thương, bởi vì cách để bộc lộ cảm xúc của họ quá ít ỏi.

Đây chính là cơ hội.

Nếu trong đó ta thêm vào những sự dẫn dắt từ từ thì sao?

Giống như những thủ đoạn mà Mi Đế dùng ở hậu thế vậy…

Tây Vực đã ở đây, trận địa cũng đã ở đây, nếu Hoa Hạ không chiếm lĩnh, tất nhiên sẽ có kẻ khác đến chiếm lĩnh.

Dưới tác động của ngoại vật, lòng người sẽ chuyển động.

Do cường độ của ngoại vật khác nhau, tình cảm của con người biểu hiện ra các tầng bậc khác nhau. Âm nhạc xuất phát từ lòng người, nhưng cũng có thể trở thành một loại ngoại vật mới, gây tác động ngược lại đến lòng người. Trong cuốn Nhạc, từ thời sơ khai của Hoa Hạ, đã có viết rõ ràng rằng, ‘Phàm âm là từ lòng người mà sinh. Tình động ở trong, nên biểu lộ ra ngoài thành tiếng. Tiếng có hình thức, gọi là âm.’

Về mặt này, Tây Vực hầu như là một khoảng trống. Vì vậy, khi hòa thượng đến, mang theo pháp khí và làm cho tiếng chuông gõ vang lên, dân Tây Vực lập tức bị cuốn hút, rồi chẳng mấy chốc họ chấp nhận giáo lý của Phật giáo, sinh ra tín ngưỡng.

Vậy nếu ta thay hòa thượng kia, hoặc thay đổi nội dung bên trong thì sao…

Âm nhạc có nhiều loại, có thể là trang nhã hoặc mạnh mẽ, có thể là tinh tế hoặc thô mộc, mỗi loại đều có thể đem đến cho con người những cảm nhận khác nhau, dẫn dắt sự chuyển biến tình cảm của con người. Giống như ở hậu thế, cổ điển và nhạc rock đều thuộc phạm trù âm nhạc, nhưng cảm giác chúng mang lại cho người nghe là hoàn toàn khác biệt.

Có người thích cổ điển, có người chỉ thích nhạc rock, sự khác biệt này phần lớn do môi trường quyết định, chỉ một phần nhỏ do bẩm sinh.

Vì thế, Phỉ Tiềm muốn kiến tạo một môi trường Tây Vực mới, chiếm lĩnh những vùng đất lẽ ra phải chiếm lĩnh từ lâu, chứ không phải nhìn bọn hòa thượng, hay ai khác từ bên ngoài trắng trợn xâm chiếm vùng đất đáng ra thuộc về Hoa Hạ.

Người xưa thật khó nhọc biết bao! Trong bối cảnh sản xuất còn lạc hậu, vật tư còn thiếu thốn, thế mà vẫn lo nghĩ cho hậu nhân, chuẩn bị bao lý luận và phương pháp. Vậy mà, hậu nhân Hoa Hạ lại bỏ mặc chúng, thậm chí vứt bỏ như đồ cũ.

Suy nghĩ một hồi, Phỉ Tiềm lại nói với Giả Hủ: ‘Ở Tây Vực, dùng âm thanh, âm nhạc làm chính. Nơi thôn dã, nên dùng âm thanh kỳ lạ, độc đáo; còn trong thành thị, ưa chuộng âm thanh nhã nhặn, hòa hợp. Người nơi dã ngoại, lao lực mệt mỏi, cần có âm thanh kỳ quái, thúc đẩy ý chí, khích lệ tinh thần; còn dân thành thị thì cần dạy dỗ mà học lấy sự hài hòa, giữ âm thanh trật tự không loạn. Như có câu, quân tử vui theo đạo, tiểu nhân vui theo dục, không cần luận cổ hay kim, chỉ cần là chính đáng mà thôi.’”

Giả Hủ gật đầu đáp: “Chủ công nói rất phải. Cuộc tranh biện giữa cổ nhạc và tân nhạc thực chẳng lợi gì cho giáo hóa, ngược lại còn gây thêm rối ren. Âm nhạc vốn là một phần của đạo giáo hóa, lấy tiếng mà dẫn dắt, lấy nhạc mà hấp dẫn, đó mới có thể gọi là nhạc. Nếu chỉ là tiếng đơn thuần, thì không đủ để luận về nhạc. Ai hiểu nhạc, cũng không nên khinh rẻ người chỉ hiểu tiếng. Giống như kẻ biết trăm chữ không thể sáng tác văn chương trau chuốt, mà người làm ra văn chương lại không cần cười nhạo kẻ biết trăm chữ vậy.”

Phỉ Tiềm gật đầu, “Hay lắm. Tranh cãi giữa cổ nhạc và tân nhạc cũng tựa như cuộc tranh biện giữa cổ văn và kim văn, đều không đáng để lấy.”

Cổ nhạc là loại nhạc lưu truyền từ thời các vua Viêm Hoàng, Nghiêu, Thuấn, mang tính nhã nhạc như khúc nhạc “Hàm Trì” của Hoàng Đế, nhạc “Đại Chương” của Nghiêu, nhạc “Thiều” của Thuấn, nhạc “Hạ” của Vũ; tất cả đều mang tiết tấu chậm rãi, trang nghiêm và giàu ý nghĩa. Còn tân nhạc xuất hiện vào thời Chiến Quốc, tiêu biểu là âm nhạc Trịnh và Vệ, mang nhiều sắc màu phù phiếm, không có nội hàm đặc biệt.

Cuộc tranh giữa cổ nhạc và tân nhạc thực ra còn sớm hơn cả tranh chấp giữa cổ văn và kim văn, đã có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, mà gốc rễ của tranh biện này vẫn là vấn đề chính trị. Vì sĩ nhân Hoa Hạ tin rằng âm nhạc và chính trị có mối tương thông, có thể dùng để đánh giá việc trị quốc.

“Trong Kinh Thi, không có đoạn nào chê bai âm nhạc phù phiếm của Trịnh Vệ mà bỏ qua văn chương của nó, cũng không vì âm nhạc trầm hùng của tiền Tần mà ngần ngại ghi lại ca từ,” Phỉ Tiềm trầm giọng nói, “Đạo âm nhạc có thể nhìn âm thanh mà biết phong tục, nhìn chính trị mà hiểu rõ chủ nhân của nó. Chu Công có thể lấy nhạc Chu Nam làm phong, sao Đại Hán lại không thể lấy nhạc phong của Tây Vực?”

Giả Hủ gật đầu tán thành, tiếp lời: “Đúng vậy. Dùng âm nhạc để đánh giá chính trị, xưa nay đều có thể áp dụng. Bậc quân chủ là chủ của muôn dân, điều gì chủ ưa chuộng, dân chúng tất sẽ theo. Nếu dụng cụ trong nước vượt quá chế độ, có thể thấy sự xa xỉ của quốc gia, không tuân theo quy củ, ngày mất nước sẽ không còn xa. Xưa có lời rằng, nhà Tống suy tàn thì sáng tác ‘Thiên Chung’, nhà Tề suy tàn thì sáng tác ‘Đại Lữ’, nhà Sở suy tàn thì sáng tác âm nhạc của Vu. Dân Tây Vực đa phần nghe những khúc nhạc bi ai, đủ thấy các quốc chủ mất chính đạo, dân chúng ly tán, đây chính là cơ hội ta có thể lợi dụng.”

Khổng Tử đã từng nói, muốn hiểu về một quốc gia, chỉ cần nhìn vào âm nhạc mà dân chúng thường nghe.

Dĩ nhiên, thời cổ xưa chỉ có âm nhạc làm hình thức giải trí chính…

“‘Muốn cải phong đổi tục, không gì tốt hơn là nhạc,’” Phỉ Tiềm nói, “Việc giáo hóa Nam Hung Nô, vì nước nhỏ nên có thể chia cắt mà thi hành, nhưng Tây Vực đất rộng, các quốc gia hỗn tạp, cần phải dùng phương pháp mới. Lấy Phật giáo làm lực kéo, làm suy yếu ý chí của họ; dùng âm nhạc làm điểm tụ hội, xóa bỏ sự ngăn cách; lấy thương nghiệp làm mồi nhử, làm cao ngạo tầng lớp trên; và lấy giáo dục làm phương tiện tiến thân, từ đó thu hút lòng dân…”

“Thái Sử Tử Nghĩa tính tình thẳng thắn, khó lòng lo liệu mấy chuyện vụn vặt, nên ta chỉ nói về bốn hạng người, đạo của nông công, lấy Vũ Uy trấn áp, diệt trừ loạn lạc như lửa cháy lan đồng nội… Còn phương pháp giáo hóa, cách thức thẩm thấu…” Phỉ Tiềm nhìn Giả Hủ, “Chỉ có Văn Hòa mới có thể thấu suốt, hiểu rõ huyền cơ, từ đó dùng văn lấn dẫn đạo, chiêu nạp thân thiện, tiêu trừ thù hận, như nước thấm mà lan xuống… Văn và võ, nước và lửa tương hỗ. Mười năm sẽ định, nhanh thì mười năm, chậm thì hai ba chục năm, Tây Vực sẽ hoàn toàn thuộc về Hoa Hạ…”

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
xuongxuong
26 Tháng năm, 2020 06:56
Dân Nha Trang ăn chơi ghê vậy? Ăn nhậu t2, t3, t4 à? :V
Nhu Phong
25 Tháng năm, 2020 23:20
Dạo này con gái đầu đi học chữ vào các buổi thứ 2,3,4 trong tuần nên các bạn cứ ăn nhậu thoải mái. Mấy ngày đấy mình bận nên không convert truyện được đâu. Ahihi.
quanghk79
25 Tháng năm, 2020 01:19
1 tướng công thành vạn cốt khô mà. truyện tranh bá chứ đâu phải truyện về thánh nhân đâu.
xuongxuong
24 Tháng năm, 2020 08:50
Hồi sơ khởi, c345 346, Tiềm vì phải lấy được lúa gạo mà cho lập kế giết không ít binh sĩ vô tội, dưới tay gặp Lư Thường dụ Cổ Cù giết cả nhà Trương Gia. Haizz, đại nghiệp cũng là đại nghiệp.
xuongxuong
24 Tháng năm, 2020 08:19
Đợi con Tiềm đánh xuống được FC cũng ngót 10 năm :3
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 20:54
Lưu Độ nắm Linh Lăng, cũng coi như là 1 quận lớn ở Hồ Nam. Lưu Phạm ban đầu xuôi nam tiếp nhận GC để liên kết với Thục Trung cát cứ Tây, Nam đế quốc nhưng không thành do bị thế lực địa phương là Sĩ gia nắm hết cơ sở nên chỉ là chức suông, bù nhìn. Sau đó LP chạy qua Lưu Độ mượn quân đánh úp GC, nhưng mà lạc đường + vườn không nhà trốn nên cứ loay hoay trong rừng dưới sự giám sát của Sĩ Tiếp. Sau này Hứa Tĩnh qua đầu quân GC nên Sĩ Tiếp giao cho 1 cái đầu danh trạng là: xúi Lưu Phạm nhảy hố Nam Trung, các nhà đánh phó bản, mỗ chơi nông trại vui vẻ. :v
quangtri1255
23 Tháng năm, 2020 16:34
c1770 nhờ mấy bác tóm tắt tình hình Giao Châu cái. Lưu Phạm Lưu Độ Sĩ Nhiếp ntn với. Lưu Độ ở chỗ nào, có nắm thực quyền không? Lưu Phạm ở chỗ nào.... Sĩ Tiếp vẫn giữ thực quyền hay lùi lại sau màn thao túng?
Huy Quốc
23 Tháng năm, 2020 01:48
Mà tác giả chuyện này viết đúng chứ đâu thêm bớt gì quá đâu, rõ ràng thời tam quốc thì vn cũng chỉ coi như là 1 dạng dân tộc nhỏ như ng khương hay hung nô thôi, vs lại tác giả là ng trung mà, dù muốn hay ko thì vẫn phải thiên về phía nước của họ, đọc truyện chủ yếu là hiểu thêm về thời tam quốc thôi nên mọi người hãy bình tĩnh vs thoải mái mà đọc, đừng vì thấy nhắc tới giao chỉ này nọ rồi lại drop truyện, trừ khi nào mà tác giả đặt điều phi logic quá thôi
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:20
thực ra là có tộc Hoa đó bạn. Dân đi tàu xuôi từ Lưỡng Quảng xuống NTB vs NB khai hoang
trieuvan84
23 Tháng năm, 2020 00:18
nhắc tới GC nhưng thật ra cũng chưa động gì nhiều, chủ yếu là lập trường chính trị vs lập phó bản tập trung ở Nam Trung. Thực tế là con Phí Tiền cũng nói: gân gà, rảnh ruồi như Trư ca mới 7 bắt 7 thả, Thục Trung cũng chỉ là cái kho lương, diệt hết chuột lang thì lòi ra chuột cống, nên cũng chỉ có thể tìm cách trấn áp bằng tin giả, sau đó dùng người địa phương trị người đụa phương. Mấy chương trước thì con tác mặc định Sĩ Tiếp là người địa phương của GC rồi, mặc dù quê gốc là ở chỗ khác :v
xuongxuong
22 Tháng năm, 2020 21:05
Mình thấy bình thường, như mình hay nhóm tác giả quyển Cơ sở Văn hóa VN hay bảo lưỡng quảng là của VN vậy. Con tác là dân Trung thì Lập trường phải rõ ràng nếu không thì truyện nó drop từ tận bên TQ, xứ nó kiểm duyệt kỹ thôi rồi. Ấy thế mà con tác cũng cà khịa Thái Tổ, Hoàng Đế cả nùi. Với lập trường con tác với Mông Cổ cũng không tệ, binh bại nhưng phong cách. Nên mình nghĩ cứ theo dõi, khi nào dối trá hay mạt sát thì droo.
Nguyễn Đức Kiên
22 Tháng năm, 2020 19:03
nói nhân chủng thì hơi xa. vấn đề là thái độ chính trị chứ ko phải nhân chủng hay dân tộc văn hoá gì. như trong truyện nói thì dù hồ dù khương nói tiếng hán dùng hán lễ thì cũng là người hán. tình hình lịch sử thời điểm đó đúng là chúng ta là thuộc hán, văn hoá chúng ta bị ảnh hưởng bởi văn hoá trung quốc. cái này ko có gì bàn cãi cũng không có gì phải xấu hổ vì dù thế chúng ta vẫn giữ được độc lập tự do, phát triển ra văn hoá của chúng ta. học tập tiến bộ mới phát triển tồn tại được còn bo bo giữ cái cũ cổ hủ thì bị đào thải là điều tất nhiên. còn người hán hay người kinh thì cái này là vấn đề tư tưởng chính trị là chính. ví dụ như quang trung nếu thực sự yêu sách được 2 tỉnh quảng đông quảng tây từ chính quyền mãn thanh thì chúng ta có lẽ bây giờ khối đại đoàn kết toàn dân có thêm dân tộc hán.
Hieu Le
22 Tháng năm, 2020 17:07
từ vụ LB đánh tây vực là ta nghi nghi sẽ tới Giao Chỉ rồi. chuyện này ko khéo sợ bị drop quá.
chipchipne
22 Tháng năm, 2020 10:54
truyện hay hi vọng con tác ko bị bệnh mãn kinh mà drop :(
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 10:24
@jerry: đang nói tình hình lịch sử lúc đó thì Giao Châu bao gồm từ Quảng Tây trở xuống hết đồng bằng sông Hồng (gọi tên theo bây giờ cho nôm na dễ hiểu). Đất Đông Lào lúc đó rất rộng nhưng thưa dân, đa số là rừng núi nên bị coi là man hoang. Thêm nữa, cái Hải Nam lúc đó là chưa có đảo Hải Nam. Còn về nhân chủng thì biết Đông lào là Mongoloites đi cho đỡ nhức đầu, chứ tính vs Negroloites thì còn cao và xa lắm :v vậy đi cho mấy bạn khát nước bên kia có cùng nhân chủng để dễ lập bản xứ :)))))
jerry13774
22 Tháng năm, 2020 09:50
từ thời Triệu Đà đã có chữ viết là chữ nòng nọc theo ảnh hưởng của nền văn hóa ấn độ, dân việt lúc đó đã có nguồn gốc giống với dân nam á, sau ngàn năm bắc thuộc đã hủy diệt nền văn hóa bản địa ban đầu và ngày nay được xây dựng lại bị ảnh hưởng nặng nề của nho giáo
trieuvan84
22 Tháng năm, 2020 08:28
lầu trên, chữ Nôm đúng thực tế cũng là mô phỏng theo chữ Hán, nó nói là nó khai sáng văn minh cho mình cũng không có gì sai, vì trước khi bị Triệu Đà xâm lược thì tộc Đông Lào cũng là hổ báo nhưng ở cấp mẫu giáo, thứ nhất là lập quốc từ nhiều bộ tộc, thứ hai là dân số không đông, thứ ba là chưa chính thức có cái gọi là văn tự để truyền thừa thực tế. Thực tế là từ văn hoá Đông Sơn đến tận Cổ Loa, chưa tìm được văn tự gốc của dân tộc, mà chỉ là các hình vẽ trên hang đá, trống đồng, các di chỉ,... Một điều nữa là: kể cả Hàn Quốc, Nhật Bản lẫn Bắc Triều Tiên đều dùng bộ ký tự biến thể từ Hán Ngữ, đặc biệt là có khi xài song song như là quốc ngữ dùng trong học tập và làm việc. VN thì hên hơn là triều hậu Lê lẫn Trịnh Nguyễn hùng mạnh nên vừa mất đất, xém tý mất tính ngưỡng, còn bộ chữ viết thì phải đổi để dễ đồng bộ, đồng hoá vs mẫu quốc :))))
huydeptrai9798
22 Tháng năm, 2020 02:54
Vẫn là giọng văn thiên triều tiêu biểu :))) đến cả chữ nôm cũng vơ vào của nó thì chịu rồi
Nhu Phong
21 Tháng năm, 2020 20:08
Chương tiếp theo có nhắc đến Giao Chỉ - Việt Nam. Tuy nhiên các vấn đề nhắc đến đều có trong lịch sử.....Mình sẽ tiếp tục convert và cân nhắc thái độ, quan điểm của tác giả khi nhắc đến Việt Nam.... Thân ái ----------------------------------------- Sĩ Tiếp làm dân chính quan tới nói, cũng coi là không tệ, chí ít tại Trung Nguyên đại loạn đoạn thời gian này bên trong, không chỉ có ổn định Giao Châu địa khu, còn cùng xung quanh dân tộc thiểu số ở chung hòa thuận, thậm chí còn tại Giao Châu phát triển Nho học. Bất quá cùng Phiêu Kỵ Tướng Quân Phỉ Tiềm không giống chính là, Sĩ Tiếp còn không có tiến thêm một bước đến giáo hóa trình độ, chỉ là " Sơ khai học, giáo thủ trung hạ kinh truyện", bất quá liền xem như như thế, cũng ảnh hưởng tới một nhóm Giao Chỉ địa khu dân chúng bắt đầu thông thi thư, biết lễ nghi. Thậm chí ảnh hưởng đến hậu thế, Việt Nam đang phát triển trong quá trình, từng sinh ra một loại văn tự, gọi là chữ Nôm. Có người cho rằng loại này chữ Nôm liền là Sĩ Tiếp thổ sáng tạo, vì để cho Giao Chỉ người tốt hơn học tập Hoa Hạ kinh truyện. Đến mức hậu thế tại 《 Đại Việt sử ký toàn thư 》 còn đem Sĩ Tiếp nhậm chức thời kỳ này làm một cái kỷ niên đến ghi chép, xưng là "Sĩ Vương Kỉ" . Văn hóa truyền bá khiến cho Giao Chỉ địa khu bắt đầu chậm rãi đi vào văn hóa thời đại, chậm rãi thoát khỏi nguyên lai dã man lạc hậu cách sống. Từ góc độ này tới nói, Sĩ Tiếp tại Giao Chỉ địa khu địa vị, có thể thấy được lốm đốm. ------------------------------------------------
tuan173
21 Tháng năm, 2020 15:38
Tiếp theo ý của bạn trieuvan84, theo thuyết di truyền quần thể, một cặp vợ chồng cần có hai người con trưởng thành tới tuổi sinh sản để đảm bảo sự giống còn của giống loài. Cộng thêm điều kiện sinh sản khó khăn thời xưa. Nếu tính số trung bình, người vợ cần sinh sản 5,6 người con, may ra mới đảm bảo con số 2 nêu trên. Cộng thêm tuổi thọ trung bình thời xưa vốn rất thấp, thành ra cả đời người phụ nữ chỉ có khi tập trung cho việc sinh sản. Nên việc săn bắn, hái lượm, bảo vệ lãnh thổ thì dần phụ thuộc vô giống đực. Nên cán cân quyền lực bị dịch chuyển về phía giống đực thôi. Mình vừa trình bày một thuyết thôi nha, các bạn đọc để có thêm suy nghĩ. Điều này còn cần được kiểm chứng.
trieuvan84
21 Tháng năm, 2020 10:06
thêm cái nữa phụ nữ khi có mang thì... ai có rồi tự hiểu, rồi khi tới tuổi mãn kinh thì.. haha mà đúng nhiều chức quan đôi khi nam làm không tinh tế bằng nữ, thí dụ như lễ quan hay dịch quản, thư quản
Trần Thiện
20 Tháng năm, 2020 23:04
Thật ra cái vụ từ mẫu hệ sang phụ hệ thì nguyên nhân chính là giống đực có tính chiếm hữu mạnh, bạo lực max cấp. Trong khi giống cái ngược lại thôi. Con tác giải thik lằng nhằng vãi nồi
Nguyễn Đức Kiên
20 Tháng năm, 2020 18:44
tào tháo cho người (ko nhớ ai) mang bảo kiếm đến tận nơi. ko nghe lệnh rút cướp quân quyền mà mang về rồi mà. lấy đâu ra quân mà đánh.
quanghk79
20 Tháng năm, 2020 16:21
Hạ Hầu Uyên là danh tướng, nóng tính nhưng ko phải dạng bất chấp tất cả. Có thể cãi lệnh nhưng sẽ ko nướng quân đâu.
Huy Quốc
20 Tháng năm, 2020 14:17
Bên tào huỷ nhưng hạ hầu uyên cãi lệnh mà, k biết tào nhân có chạy theo cản ko, chứ lần gần nhất là hạ hầu uyên đuổi tk đưa tin về rồi tiến quân đánh thì phải
BÌNH LUẬN FACEBOOK