“Sư phụ… không, tiền bối Vân Dương Tử, ông ấy có khỏe không?”, Lục Kính Sơn cất giọng run run.
Thay đổi cách xưng hô khiến Lý Dục Thần khẽ ngẩn người. Nhưng anh không hỏi nhiều, chỉ gật đầu nói: “Khỏe”.
“Khỏe, khỏe thì tốt”, Lục Kính Sơn thở dài một hơi, ngước nhìn lên trời, hơi thất thần.
Hồi lâu sau, ông ta mới định thần lại, nhìn sang Lý Dục Thần, mỉm cười nói:
“Cậu là sứ giả Thiên Đô, chẳng trách có thể một chiêu chặn được biển lửa sóng lớn của yêu quái biển, lần này nếu không phải có cậu ở đây, đảo Cửu Long chắc chắn sẽ gặp đại nạn. Tôi thay mặt hương thân phụ lão trên biển, cảm ơn cậu”.
Lý Dục Thần thản nhiên nói: “Không cần, thực ra trên đảo có ông, tôi vốn không cần ra tay”.
Lục Kính Sơn lắc đầu nói: “Vừa nãy tôi đang vào thời khắc quan trọng của phá quan, chỉ thiếu một chút, cho nên không thể lập tức ra tay. Tà thuật của phương Tây vô cùng khác thường, vừa nãy cậu không ra tay, hậu quả không thể lường được. Được rồi, chúng ta đừng đứng ở đây nói chuyện nữa, đợi tôi tắm rửa thay quần áo, chính thức tiếp đón sứ giả”.
Liền tiến lên cầm tay của Lý Dục Thần, hai người sánh vai đi từ cây cầu về, rồi về đến thị trấn với mọi người vây quanh.
Kỷ Nghiễm Lai và Trữ Phượng Toàn ngồi uống trà cùng Lý Dục Thần và chị Mai trong một căn nhà cổ ở trấn, đợi Lục Kính Sơn đi tắm rửa thay quần áo.
Thực ra với tu vi của Lục Kính Sơn, đã đột phá tiên thiên, người không nhiễm bụi tranafm đương nhiên không cần tắm rửa, nhưng ông ta vô cùng coi trọng việc Lý Dục Thần đến đây, để thể hiện sự tôn trọng, kiên quyết muốn làm vậy.
Chỉ lúc sau, đã nghe thấy tiếng cười vang sáng của Lục Kính Sơn: “Thiên thần đang ở đâu?”
Nghe thấy hai chữ ‘thiên thần”, chị Mai cứ cảm thấy kỳ kỳ. Tuy bà ta biết rõ là gọi Lý Dục Thần, nhưng vừa nãy nhìn thấy ‘Luyến Thần” của người phương Tây trên biển, khó tránh liên tưởng đến.
Thực ra từ ‘thiên sứ’vốn là từ hán ngữ, vốn chỉ thần hạ phàm, là sứ giả trên trời.
Sứ giả vương triều Hoa Hạ đi ra nước khác, cũng được gọi là ‘thiên sứ’, chỉ vì Hoa Hạ là thượng quốc thiên triều.
Sau này phương Tây truyền giáo, văn hóa phương Tây thịnh hành, từ thiên sứ trở thành đặc chỉ.
Giống như ‘thượng đế’, vốn chỉ ‘thượng đế trên trời’, nay lại thành từ để gọi các thần toàn trí toàn năng của giáo phái phương Tây.
Thực ra trong giáo phái phương Tây không có khái niệm ‘trời’, chỉ có thần, thiên sứ, nên gọi là thần sứ. Chúng cũng không phải con người, càng không có máu thịt, chỉ là ngẫu nhiên hiện thế với hình người, giống như một loại linh yêu.
Hoặc là dứt khoát dịch âm thành ‘An kỳ nhi’ hoặc là ‘an cát la’ dùng để chỉ thì hợp lý hơn. Như vậy con người sẽ không lẫn lộn ý nghĩa với thiên sứ.
An kỳ nhi/ an cát la: phiên âm của từ angela (thiên thần)
Lý Dục Thần đến từ Thiên Đô, lại là tổ đình Vạn Tiên, Lục Kính Sơn gọi anh là thiên sứ, là chuyện rất bình thường.
Vì chị Mai sinh ra ở thời hiện đại, không quen lắm, sau khi bà ta biết tuổi tác của Lục Kính Sơn, liền hiểu tại sao người ta gọi tự nhiên như vậy. Càng cảm thấy chút công phu đắc ý của mình quá yếu trước mặt Lục Kính Sơn.
Lục Kính Sơn thay bộ quần áo trông càng trẻ hơn, tuy đã cố ý giữ vẻ trưởng thành của đàn ông trung niên, nhưng làn da trắng tinh, răng trắng môi đỏ, mày kiếm sắc xảo, lại trông như một mỹ nam thực sự.
Ông ta gặp Lý Dục Thần, liền thu lại nụ cười, trở nên nghiêm túc, hỏi: “Đã là sứ giả từ Thiên Đô, cậu có Thiên Đô Lệnh không?”
Lý Dục Thần lấy ra một tấm lệnh bài, giơ trong tay, lệnh bài bắn ra một đường sáng, xuất hiện một đao thiên phù trong hư không, trên đó có hai chữ Thiên Đô.
Lục Kính Sơn thấy vậy, liền phủi bụi quỳ xuống, cất giọng run run nói: “Đồ đệ bất hiếu Kính Sơn, bái kiến thiên sứ!”
Lý Dục Thần vội vàng đỡ ông ta lên, cất Thiên Đô Lệnh đi, hỏi: “Đảo chủ Lục, ông thực sự là đệ tử Thiên Đô ư?”
Lục Kính Sơn thở dài một hơi, cười khổ nói: “Tôi là đệ tử bị vứt bỏ của Thiên Đô. Hai trăm năm trước, tôi đã bái sư Vân Dương Môn, trở thành đệ tử Thiên Đô. Đó là vinh dự thế nào chứ!”
“Vây sau đó sao lại…”
“Trăm năm trước, tôi phụng lệnh xuống núi, vào hồng trần, tìm kiếm cơ duyên đột phá. Lúc đó, thế giới hỗn loạn, chiến loạn không ngừng, nhân gian như địa ngục. Tôi hành tẩu trong nhân gian, trừng trị cái ác, phát huy cái thiện, giúp kẻ yếu trừ kẻ mạnh. Nhưng sức một mình tôi không thể thay đổi được gì. Thấy nhiều nỗi khổ người đời, tôi nảy sinh tâm ma, sát nghiệt nặng nề, cuối cùng thói quen khó sửa, rời vào ma đạo...”
Nói đến đây, trên khuôn mặt Lục Kính Sơn hiện lên vẻ đau khổ.
Lý Dục Thần có thể hiểu được nỗi khổ của ông ta. Người tu hành không sợ gì hết, chỉ sợ nhập ma. Đặc biệt là bái dưới môn hạ Vạn Tiên người người ngưỡng mộ, được người ta tôn làm thiên sứ, lại không thận trọng rơi vào ma đạo, lúc đó dằn vặt nội tâm và nỗi khổ của linh hồn, nghĩ cũng biết.
“Cũng may sư phụ kịp thời xuất hiện, mới không để tôi phạm sai lầm lớn hơn. Sư phụ phế đi tu vi của tôi, đuổi tôi khỏi Côn Luân. Lúc đó lòng tôi đã nguội lạnh, liền đến biển Đông, định tìm một hòn đảo, kết thúc cuộc đời. Không ngờ, tôi bị hải tặc bắt được”.
Lục Kính Sơn tự cười chế nhạo.