Những chuyện này, là dì Vệ, quản gia bên cạnh Dụ Phượng Kiều nói với Nam Mẫn.
“Hải ca của chúng tôi, từ nhỏ đến lớn đã chịu không ít ấm ức. Người bên ngoài đều cho rằng cậu ấy là con cưng ông trời, cháu ngoại lại có thể trở thành người thừa kế của nhà họ Dụ, có phúc lớn biết bao, nhưng tôi biết, cậu ấy trải qua bao nhiêu khó khăn, chịu biết bao khổ sở. Cậu ấy lạnh lùng như vậy, có liên quan đến hoàn cảnh sống”.
Dì Vệ nói: “Hồi nhỏ Hải ca là một đứa trẻ thông minh nhanh nhẹn, tuy không thích nói nhiều, nhưng thường xuyên nói một tràng chọc cho mọi người cười. Tuy cô cả yêu cầu nghiêm khắc với cậu ấy, nhưng cũng không muốn cậu ấy nhất định phải trở thành người thừa kế, mà hy vọng sau này cậu ấy có thể trở thành đàn ông đích thực đội trời đạp đất”.
“Sau này, tình cảm của cô cả và người họ Thẩm rạn nứt, hai người thường xuyên cãi nhau, Hải ca trở thành thùng trút giận của họ, có một lần hai người cãi nhau to, Hải ca ra khuyên giải, kết quả bị Thẩm Lưu Thư tát một cái đập vào góc bàn trà, chảy máu đầu, đi viện khâu sáu mũi”.
Dì Vệ nhớ đến cảnh lúc đó, trong lòng chua sót: “Từ đó về sau, Hải ca trở nên không thích nói chuyện, cũng không cười. Người phụ nữ Trác Nguyệt đó nham hiểm, giả bộ dịu dàng đáng thương trước mặt Hải ca, hy vọng khiến cái nhà này tan nát, cô cả có tính mạnh mẽ, vì vậy không ít lần trách phạt cậu ấy, mẹ con dần dần xa cách. Sau này cô cả li hôn với Thẩm Lưu Thư, cô cả giành quyền nuôi con, càng yêu cầu nghiêm khắc với cậu ấy hơn”.
“Lúc đó Hải ca muốn tòng quân, cả nhà đều phản đối, cô cả càng lo lắng, không muốn cho cậu ấy mạo hiểm. Nhưng con người bà ấy, miệng xà tâm phật, có gì cũng không nói tử tế, nói là Hải ca muốn đi, thì bà ấy coi như không có thằng con trai này, sống hay chết, vinh hay nhục, không liên quan đến bà ấy”.
Những lời này khiến Nam Mẫn nhớ đến lúc trong rừng rậm, hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, ai đi vào cũng phải chết.
Lúc cô cũng sắp mất đi ý chí muốn sống, một bóng hình mạnh mẽ tiến vào, là anh đã mang hy vọng đến cho cô.
Nhưng anh sẽ không yêu một ai.
Nam Mẫn ngửa đầu uống một ly rượu, chỉ cảm thấy trong lòng rất đắng.
Một người đàn ông cô đã yêu mười năm…
Cô thà rằng anh chưa từng trải qua những đau khổ đó, chỉ đơn thuần không yêu cô thôi.
Lạc Ưu nhìn Nam Mẫn, nói: “Tôi nhìn ra, trong lòng lão Dụ có cô. Trong lòng cô cũng chưa chắc không có anh ta. Tôi không hiểu chuyện tình cảm, chỉ là nếu trong lòng vẫn nhớ nhau, tại sao không thử đến với nhau?”
Cô hơi thộn người, đối với cô, yêu là yêu, hận là hận.
Yêu thì đến với nhau, không yêu nữa thì chia tay.
Thường xuyên làm việc trong nguy hiểm, không biết có thể sống đến năm nào tháng nào, ngoại trừ trách nhiệm gánh trên vai, với Lạc Ưu, cứ vui vẻ hết mình mới là chân lý cuộc đời, ai chịu ấm ức cũng không thể để mình ấm ức, muốn làm gì thì cứ làm.
Nam Mẫn nghe vậy, không tỏ thái độ gì, chỉ khẽ cười: “Cô chưa từng nếm thử đau khổ của tình yêu, đợi ngày nào đó cô cũng yêu ai đó, thì cô sẽ biết, trong thế giới của tình yêu, không phải phân rõ trắng đen, luôn có màu sắc khác. Có người may mắn, hai người có thể đi cùng nhau hết cuộc đời, có người không may mắn, chỉ để lại một vết tro tàn”.
Có phụ nữ nào mà không dồn đủ thất vọng mới từ bỏ chứ?
Không đến thời khắc cuối cùng, cũng sẽ không lựa chọn dùng cách li hôn để giải quyết, cắt đứt tình cảm của mình.
Đối với cô, khi Dụ Lâm Hải đích thân nói ra hai chữ ‘li hôn’ với cô, khi cô ký tên ‘Lộ Nam Mẫn’ trên thỏa thuận li hôn, là đã tuyên bố kết thúc mười năm yêu anh nhất.
Người phụ nữ hèn mọn đó đã chết.
Nói cho cùng, cô là Nam Mẫn, không phải Lộ Nam Mẫn.
Lạc Ưu ưu tư suy nghĩ: “Tuy tôi không hiểu lắm, nhưng tôi hiểu đạo lý ‘chưa từng trải qua đau khổ của người khác thì đừng khuyên họ lương thiện’. Vừa nãy tôi nhiều lời rồi, coi như tôi nói linh tinh đi, sau này không nhắc nữa”.
Cô ấy nâng ly rượu xin lỗi với Nam Mẫn, Nam Mẫn cười, chạm ly: “Tha cho cô đấy”.