Tại trong cả Thanh Nguyên Sơn, nếu muốn chọn ra một người không có chí tiến thủ nhất, không ai khác chính là Trác Tri Viễn.
Tuy rằng Trác Tri Viễn năm nay mới chỉ có tám tuổi, đối với những hài đồng dưới chân núi, tuổi này vốn là vô ưu vô lo hay là bắt đầu vào học đường gật gà gật gù ngâm nga học thuộc tam tự kinh. Nhưng mà tại trong Thanh Nguyên Sơn này, cho dù là hài đồng ít tuổi hơn so với Trác Tri Viễn, cũng đều hiểu rõ, chỉ có siêng năng luyện công, mới có thể được sư trưởng của nội môn để ý mà theo đó chân chính đi vào hàng ngũ tu chân giả.
Thanh Nguyên Sơn này vốn là đệ nhất danh sơn của Đại Dận hoàng triều, nổi tiếng xa gần, ai ai cũng biết. Trên núi có một môn phái tên là Thủy Giáo, môn nhân đệ tử của Thủy Giáo đều là những người thuộc tiên môn, muốn gặp được một người bình thường ở Thanh Nguyên Sơn này thì một người cũng không có. Đừng nói là dân chúng bình thường, ngay cả Đại Dận hoàng tộc, cũng chỉ có những vị hoàng đế vừa lên ngôi một năm mới được cho phép tiến vào trong Thanh Nguyên Sơn kiến thức qua một lần, những người còn lại cũng chỉ biết được Thanh Nguyên Sơn Thủy Giáo chính là giáo phái hộ quốc của Đại Dận hoàng triều. Thanh Nguyên Sơn tọa lạc tại biên thùy Tây Bắc của Đại Dận hoàng triều, kéo dài mấy nghìn dặm, nhưng lại chưa bao giờ có ai có thể nhìn thấy hình dáng thật sự.
Càng thần bí như vậy, thế nhân càng đem Thanh Nguyên Sơn hình dung như một thứ cao cao tại thượng. Vốn nó chẳng qua chỉ là thông huyền giới, một trong tam giới, nơi dành cho các tu chân giả tu luyện, lại bị thổi phồng thành tiên giới chưa từng thấy trong truyền thuyết.
Nhà mà có con cháu được các tiên trưởng Thanh Nguyên Sơn vừa ý, đem vào trong núi, thì coi như nhà đó cả họ được nhờ, đến cả mấy vị đại quan cũng phải nhìn bằng một con mắt khác, hơn nữa Đại Dận hoàng triều lại hằng năm đều có một số bổng lộc thưởng cho nhà người đó, từ nay về sau không cần làm ăn cũng có thể trở nên giàu có.
Trác Tri Viễn vốn là người của Trần gia thôn, nhưng có điều là cả Trần gia thôn cũng chỉ mình hắn là mang họ Trác, Trác Tri Viễn đối với điều này cũng là không biết rõ được. Hắn chỉ biết là người khổ cực nuôi hắn khôn lớn là một lão gia hỏa kêu là Trần lão đầu, Cả Trần gia thôn ai cũng biết, Trác Tri Viễn là do năm đó Trần lão đầu vừa vặn gặp đại hạn, xa nhà đi ăn mày một thời gian thì nhặt về một tiểu hài tử, đại khái là trong tã lót có ghi lại tính danh và ngày sinh của hắn, Trần lão đầu thật cũng không có để cho Trác Tri Viễn theo họ của mình mà giữ lại y nguyên tên khai sinh của hắn, do đó mà Trác Tri Viễn cũng là người duy nhất trong thôn không mang họ Trần.
Từ lúc mới sinh ra, Trác Tri Viễn đã đi theo Trần lão đầu ngược xuôi khắp nơi, Trần lão đầu tuy chẳng có bổn sự gì, nhưng thật ra lại là một tay đan rổ tre rất giỏi, mấy thôn xung quanh cũng chỉ có mỗi mình lão ta là biết đan rổ tre, dựa vào cái nghề này, mà lúc Trần lão đầu còn sống, Trác Tri Viễn cũng không đến nỗi là bị đói ăn.
Chỉ là đến năm Trác Tri Viễn lên sáu tuổi, Trần lão đầu sau một lần say rượu, không ngờ sảy chân ngã vào đám lau sậy, đến khi người trong Trần gia thôn hớt hơ hớt hải đem hắn vớt lên, thì cái xác nhìn không ra cái nhân dạng gì, đã đi giúp diêm vương lão gia đan rổ tre từ lâu.
Cũng may là Trác Tri Viễn tốt số, không lâu sau có hai gã đệ tử từ trên Thanh Nguyên Sơn xuống đi ngang qua Trần gia thôn thì thấy con gái của thôn trưởng cốt cách không tệ, liền dừng lại ở Trần gia thôn tuyển chọn thêm mấy người vào làm môn nhân Thủy Giáo. Trác Tri Viễn đến bây giờ cũng còn nhớ rõ, ngày ấy lúc hai gã đệ tử Thanh Nguyên Sơn lấy ra cái tấm thiết bài đen thui đại biểu cho Thủy giáo thì cả đám người Trần gia thôn liền ngay lập tức mà quỳ rạp xuống khấn vái, trong miệng không ngừng hô thần tiên gia gia. Cứ như vậy, hai gã đệ tử kia ở tại Trần gia thôn tuyển ra ba hài đồng, gồm ấu nữ của thôn trưởng Trần Anh, Trác Tri Viễn, cùng với đứa con thứ hai Trần Đại Bàn của hàng xóm nhà Trần lão đầu. Trước thời điểm ra đi, đám người trong thôn này nguyên vốn nhìn thấy Trác Tri Viễn là hận không thể một cước đá hắn ra khỏi thôn, không ngờ sau khi được lựa chọn vào Thủy Giáo thì đám người này không ngừng tự đưa đến cho hắn rất nhiều quần áo, hơn nữa còn nói muốn thu Trác Tri Viễn là nghĩa tử. Sau này Trác Tri Viễn mới biết, nguyên lai những người đó đều là thèm thuồng đến số bổng lộc mà Đại Dận hoàng triều ban thưởng cho môn nhân Thủy Giáo, nếu Trác Tri Viễn nhận bọn họ làm cha mẹ nuôi, thì số bổng lộc kia tự dưng chắc chắn sẽ nằm trong túi bọn họ. Một năm một trăm lượng bạc, cũng đủ nuôi sống một gia đình tám miệng ăn, thậm chí không cần làm việc chỉ ăn không cũng còn có thừa.
Trác Tri Viễn cùng với một đám hài đồng gồm hơn một trăm năm mươi đứa tiến vào Thanh Nguyên Sơn, Trác Tri Viễn lúc ban đầu còn tưởng rằng Thanh Nguyên Sơn thu đồ đệ đều là như vậy, nhưng sau này lại mới biết trước kia Thanh Nguyên Sơn mỗi mười năm mới xuống núi một lần đi tìm kiếm đệ tử có căn cốt thích hợp, nhưng chẳng qua cũng chỉ từ hai đến ba mười người là nhiều nhất, dù sao cũng không phải ai là đều có phúc khí tu luyện tiên gia chân quyết. Nhưng một năm gần đây lại không biết xảy ra chuyện gì mà kinh động đến thất đại trưởng lão ngụ trên bảy đỉnh núi ở hậu sơn Thanh Nguyên, cùng một lúc ra lệnh cho tiền sơn bắt buộc những đệ tử trong nội môn tiền sơn dốc hết toàn bộ lực lượng tìm kiếm hài đồng có căn cốt thích hợp đem về núi. Trác Tri Viễn lần này quả là may mắn mới có cơ duyên tiến vào Thanh Nguyên Sơn.
Vất vả luyện tập trong ba tháng, đối với những đứa hài đồng khác có lẽ còn có chút khó khăn, nhưng đối với hắn, một đứa từ lúc sinh ra đã đi theo Trần lão đầu ngược xuôi khắp nơi, hơn nữa còn liên tục phải giúp đỡ Trần lão đầu một số việc vụn vặt, thì cũng không phải là quá khó khăn. Ba tháng sau, Trác Tri Viễn đương nhiên trở thành một trong những hài đồng được lựa chọn vào một trong năm mươi đệ tử ngoại môn.
Nhưng mà một hôm, đại trưởng lão đích thân tự mình đến tiền sơn tại trên đại điển giảng dạy cho các đệ tử ngoại môn những điều căn bản, Trác Tri Viễn lại tự dưng kìm nén không được lòng hiếu kỳ của mình, nghe đại trưởng lão đang say sưa nói về mấy thứ như tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý chí, sáu giác quan... thì hắn lại giơ tay lên đặt câu hỏi cắt ngang lời giảng của đại trưởng lão, cuối cùng chọc giận đại trưởng lão. Rốt cuộc sau hôm đó, làm cho tri huyện Hình Đường Mạc Tuân tiên sinh tuyên bố đem Trác Tri Viễn từ ngoại môn đệ tử giáng xuống Thanh Trần Đường, một trong ngũ đường, làm một gã đồng tử quét đường.
Thanh Trần đường này tên nghe thấy rất tao nhã, tuy nhiên nó ở trong Thanh Nguyên Sơn chính là có thân phận thấp hèn nhất, cơ hồ đối với việc tu tiên sau này vô duyên. Mặc dù trong Thanh Nguyên Sơn linh khí dồi dào, cũng nhiều lắm là làm cho mấy tên đồng tử tạp dịch so với thường nhân sống nhiều hơn mười mấy hai mươi năm tuổi thọ mà thôi.
Cả Thanh Nguyên Sơn Thủy giáo, chia làm hai phần là tiền sơn và hậu sơn. Hậu sơn có bảy tòa đỉnh núi cao, tòa ở giữa gọi là Vong Tưởng Phong, chính là nơi thiền tu của chưởng giáo Thủy Giáo Cửu Tiêu tôn giả. Sáu tòa còn lại, theo thứ tự là nơi ở của sau vị trưởng lão Thủy Giáo. Các đệ tử ở hậu sơn chính là đệ tử đích truyền của Thanh Nguyên Sơn Thủy Giáo, người tu vi thấp nhất cũng có thể ngự kiếm phi hành một ngày mấy ngàn dặm. Vì vậy hậu sơn chính là nơi có địa vị cao nhất ở Thanh Nguyên Sơn, các đệ tử này ở hậu sơn, dĩ nhiên cũng là cao nhân một đời, ở trong Thủy Giáo có được địa vị vô thượng.
Tiền sơn thì lại chia làm ngoại môn và nội môn, đệ tử trong nội môn dĩ nhiên là có có thể tu tập chân quyết, nếu có biểu hiện xuất chúng, liền sẽ được các trưởng lão ở hậu sơn thu làm đệ tử đích truyền, tu luyện lên cao hơn. Mà đệ tử ngoại môn thì chỉ có thể tu tập võ công, địa vị so với đệ tử nội môn không thể sánh bằng.
Ngoại môn còn được chia làm năm đường, phân biệt là thanh trần, luyện đan, lên táo (làm bếp), cổ y, chế phù. Đường chủ của mỗi đường vẻn vẹn chỉ dạy cho bọn họ một vài công phu thô kệch, hoàn toàn không ra thể thống gì, thật sự là trong Thanh Nguyên Sơn có địa vị thấp kém nhất.
Bất quá Trác Tri Viễn trái lại cũng không lưu tâm đến thân phận đồng tử quét đường của mình, theo hắn nghĩ, sau khi Trần lão đầu chết, không ai nuôi hắn, nếu không phải hai vợ chồng Trần đại thúc thấy hắn đáng thương, thường giúp đỡ hắn, để cho hắn tới nhà mình ăn cơm, thì sợ là không lâu sau hắn đã sớm theo Trần lão đầu đi đan rổ tre cho diêm vương lão gia rồi. Hiện tại vào Thanh Nguyên Sơn, có thể ngày ngày được ăn no, Trác Tri Viễn cũng cảm thấy đã rất thỏa mãn rồi.
Nhưng các đồng tử khác lại không như vậy, nhiều ít bọn chúng vẫn còn lòng nhiệt khí, hơi có rãnh rỗi, thì tự mình liền đi theo các vị sư huynh hay các vị Đường chủ học tập mấy loại võ nghệ tạp nham kia, để hy vọng một ngày có vị sư trưởng nào đó thương tình, triệu mình vào ngoại môn, từ đó thoát khỏi thân phận thấp hèn này. Nhưng mà chỉ có Trác Tri Viễn lại không như vậy, ngày thường sau khi quét xong, thì liền đặt lưng nằm xuống bên cạnh con đường mòn lên núi uốn lượn giống như một chiếc thang trời trong sơn môn, miệng cắn cọng rơm, nhìn mây trắng trên trời biến hóa đủ mọi hình dạng.
Bất quá lấy thân phận của Trác Tri Viễn, lúc ban đầu bởi vì hắn là ngoại môn đệ tử bị giáng xuống dưới, nên còn có một số người chú ý một chút. Nhưng sau một thời gian, đã sớm không còn quản đến sự sống chết của hắn, Trác Tri Viễn trái lại đối với sự thanh tịnh này, lại càng cảm thấy thoải mái.
Trác Tri Viễn ở tại sơn môn quét đường cũng không phải hoàn toàn là không có việc gì làm, theo hắn biết, núi này có một tảng đá rất kỳ quái, trên tảng đá phảng phất mơ hồ có hoa văn lưu động, loại tảng đá này được những đệ tử ngoại môn gọi là linh thạch. Nghe nói linh thạch này có thể giúp trấn định tâm thần, củng cố thiền tâm, tăng cường hiệu quả hấp thu linh khí cho thân thể, cho nên ngoại môn đệ tử tu tập võ công đối với loại linh thạch này có chút coi, trọng, trên người lúc nào cũng mang theo bên mìn một hai khối dùng để củng cố tu luyện của mình.
Linh thạch khác nhau thì có giá trị khác nhau, tác dụng của hai đường vân so với một đường vân thì lớn hơn, cho tới hơn năm đường hoa vân, đó đã là thượng phẩm linh thạch. Nhưng linh thạch cũng không phải là vĩnh viễn có tác dụng, mấy cái đường vân lưu chuyển này sẽ dần dần sẽ nhạt đi rồi biến mất, một khi mà biến mất, thì liền giống như những tảng đá bình thường.
Đối với Trác Tri Viễn cũng như các đệ tử của thanh trần đường, loại linh thạch này không có tác dụng lớn gì, đặc biệt là Trác Tri Viễn căn bản là không có hỏi đến chuyện tu tiên. Chỉ là nhờ nghe được chuyện của đồng tử bên táo đường và luyện đan đường, biết được bọn họ cũng như đệ tử ngoại môn rất cần linh thạch này. Bọn họ hằng ngày đều phải đứng bên cạnh lò lửa bị khói cay xè mắt, nếu trên người có thể có một khối linh thạch, dĩ nhiên là có công hiệu bài trừ hỏa độc, bởi vậy mà Trác Tri Viễn tuy rằng nhàn hạ, nhưng cũng hay lưu tâm đến mấy đám bụi cỏ ven đường tìm kiếm xem có linh thạch hay không, nếu như là có, hắn liền sẽ thật cẩn thận thu lại, đem đến đổi với đám đồng tử bên táo đường vài bữa ăn ngon, hoặc là đến luyện đan đường đổi với đám đồng tử mấy viên đan dược luyện chế bị thất bại. Những đan dược này tuy rằng bị hư hại, đối với tu chân giả trong nội môn tự nhiên là không dùng được, nhưng đối với đệ tử ngoại môn hay các đồng tử mà nói, thì cũng không khác gì tài liệu phụ trợ, ăn vào không đơn thuần là ngon miệng mà còn có công hiệu nâng cao tinh thần, cường kiện thân thể.
Đám mây trên trời lại đang biến ảo, trong chốc lát phảng phất là hung lang đang nhe răng nanh, lát sau lại hóa thành một con chó nhu thuận, Trác Tri Viễn nhìn nó ngây ngô cười ha ha không ngừng.
Nhìn đến chán chê, Trác Tri Viễn mới cúi đầu xuống, thì nhìn thấy có một con thúy điểu đang đậu trên cành cây cổ tùng. Thúy điểu kêu to không thôi, bỗng nhiên đôi cánh mở ra, hướng về rễ cây phóng tới. Ánh mắt Trác Tri Viễn nhanh chóng nhìn theo con thúy điểu thì thấy chỗ rễ cây tựa hồ có một khối linh thạch.
Trác Tri Viễn mừng rỡ, nhảy dựng lên lao nhanh tới, thúy điểu thấy người đến thì cả kinh bay ra phía xa, Trác Tri Viễn xoay người duỗi tay ra, đem khối linh thạch kia cầm ở trong tay. Nằm ở trong lòng bàn tay, bên trên linh thạch rõ ràng là có đến bảy đạo vân sóng mờ hồ lưu chuyển, Trác Tri Viễn nhất thời hai mắt sáng lên, nội tâm trong lòng không khỏi khẩn trương hẳn lên.
Theo Trác Tri Viễn thấy, khối linh thạch này cơ hồ tương đương với hơn mười khỏa đan dược bị luyện chế thất bại, hay cũng là bằng với một khối lớn thịt bò thơm phức. Hắn đang định đưa vào trong ngực, thì lại nghe thấy từ phía sau truyền đến một thanh âm :"Đồng tử kia, ngươi nhặt được linh thạch của ta, còn không mau mau trả lại cho ta?"