• Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Chương 34. Giáp mây

Xoẹt!

Một đường kiếm nhanh gọn cứa qua cái cổ trắng của Hà Khiêm, gã đàn ông chẳng kịp ú ớ câu gì, thân hình đổ ngược về sau mà chết ngay tức khắc. Máu phun ra từng tia đỏ ngầu từ miệng vết cứa, Đằng Long nhìn gã với cái miệng ngáp ngáp nhưng thể muốn nói mà không nói được. Chỉ trong giây lát, máu trào ra làm cho cơ thể con người kiệt quệ, miệng Hà Khiêm cũng không còn mấp máy được nữa, hai mắt hắn trợn ngược lên rồi bất động.

Đằng Long chỉ đứng như trời trồng mà không có bất kì hành động nào khác, người ra tay giết hại Hà Khiêm cũng không phải y. Tiểu Trụ có vẻ quyết đoán hơn. Hắn thấy chủ nhân mới của mình do dự hồi lâu thì liền đánh bạo, Tiểu Trụ tiến đến rút Tàn kiếm trong tay Đằng Long ra và hạ thủ. Mặc dù cũng là lần đầu tiên tự tay giết người, Tiểu Trụ lại không có một cảm giác gì đặc biệt. Có lẽ vì hắn chứng kiến nhiều người chết rồi, họa chăng đối với Tiểu Trụ thì Hà Khiêm là kẻ đáng chết. Kẻ người dưới mà dám mưu hại chủ nhân, lại còn là một Lạc hầu chức cao vọng trọng trong Tiên tộc nữa. Nếu để rơi vào tay Huyết Đồ có khi số phận của hắn còn bi thảm hơn nữa ấy chứ, đâu đơn giản là một cái chết nhanh gọn thế kia?

Tựu trung, Tiểu Trụ không thấy sợ cũng không thấy hối hận hay do dự sau khi kết liễu Hà Khiêm. Hắn chỉ thấy việc đó là cần thiết, vừa để trừng phạt kẻ có tội, vừa để không làm phật lòng Nguyệt chủ.

“Việc của chủ nhân cũng là việc của thuộc hạ? Đúng không?”

Tiểu Trụ cợt nhả lên tiếng cho dù vết thương vẫn còn rất đau. Hắn ta tiến đến tra lại Tàn kiếm vào vỏ sau khi lau sạch vết máu. Đằng Long lúc này không còn đơ người ra như trước nhưng y có một chút cau mày. Không phải vì Tiểu Trụ làm càn, Đằng Long hoàn toàn hiểu được việc đó cốt chỉ để bảo vệ bản thân Tiểu Trụ và y khỏi sát ý của Nguyệt chủ. Đằng Long cau mày là vì Hà Khiêm chết rồi sẽ không còn ai đứng ra làm chứng việc Hà Lạc hầu bị mưu sát, cũng không còn ai để lần ra manh mối kẻ chủ mưu.

“Cũng được! Xem như ngươi là một kẻ nhanh nhẹn!” Nguyệt chủ lên tiếng. “Như vậy xem ra không còn việc gì ta có thể làm ở đây nữa rồi!”

Câu nói này như thể Nguyệt chủ sắp sửa rời khỏi.

“Người muốn đi sao?” Đằng Long ngập ngừng.

“Đúng!” Nguyệt chủ dùng tay trái xoay thanh kiếm vài vòng trong không trung rồi cầm nó ngang hông, tay phải chắp sau lưng chuẩn bị cất bước.

“Đợt đã…” Đằng Long gọi vội.

“Có chuyện gì?” Nguyệt chủ chỉ khẽ quay đầu lại với Đằng Long.

Ngay lúc này là một cảm giác kì lạ trong y, với tà áo trắng tung bay phấp phới cùng một ánh mắt sắc sảo. Ánh mắt như hiểu thấu Đằng Long sắp sửa nói gì. Thân ảnh Nguyệt chủ bắt đầu chìm trong làn khói cuốn làm cho nó trở nên mờ ảo tuy nhiên mùi hương thoang thoảng trong sương thì không thể lẫn đi đâu được. Dường như Đằng Long có vẻ thẫn thờ, cũng chẳng biết nữa, không hiểu tại sao y lại có cảm giác này. Áo trắng làm y liên tưởng đến Như Tranh nhưng ánh mắt vào nụ cười lại khác. Nguyệt chủ không dịu hiền như người con gái kia, thậm chí có phần độc ác. Như Tranh đối với y vẫn còn hết sức đặc biệt, chẳng qua chỉ là cái áo trắng của Nguyệt chủ vô tình gợi nhớ lại thôi.

“Người là ai?” Đằng Long không còn ngu ngơ, chất giọng của y lúc này trầm hẳn, giống như thể ba chữ kia chỉ phát ra trong cổ họng mà không cần đến động tác mở miệng của y vậy.

Người này là ai, Nguyệt chủ hay trưởng bối của y, rốt cuộc thì Đằng Long rất muốn biết mặt. Ẩn sau lớp kim loại hình bán nguyệt kia sẽ là con người như thế nào?

Tất cả vẫn chỉ là những câu hỏi không lời giải đáp.

“Sớm muộn rồi ngươi cũng sẽ biết.” Nguyệt chủ trả lời với giọng điệu lạnh lùng. Người này có một thoáng cau mày với Đằng Long mà y không hề hay biết. Có phải y đã làm điều gì phật lòng rồi chăng?

“Ngươi có con đường của ngươi…” Nguyệt chủ tiếp tục. “Phía trước là những ngày tháng tươi đẹp hay những buổi đêm giông bão? Ngươi không nên nghĩ nhiều. Chỉ cần nhớ ngươi là ai và ngươi muốn làm gì, cuộc đời ngươi, Đằng Long, nó sẽ tự nhiên trở nên rực rỡ.”

Tách!

Một giọt nước bất chợt bay từ mái tóc Nguyệt chủ và sà xuống khuôn mặt Đằng Long. Nước lạnh giống như hơi thở của thứ gì đó quẩn quanh trong đầu, cả thân hình Đằng Long bỗng chốc run lên vì thứ trầm mặc của trời đất. Hay chăng chính y cũng đang trầm mặc?

“Bởi vì… chính ngươi đã là một thứ tỏa sáng huy hoàng!”

Câu nói kết thúc cùng với một cái nháy mắt khó hiểu từ phía Nguyệt chủ. Liệu đó có phải là lời khẳng định số phận của Đằng Long hay chăng đơn giản chỉ là sự tiên tri?

Không ai biết được! Và cái bóng Nguyệt chủ cũng đã khuất dần trong sương, bỏ lại hai kẻ vẫn còn miên man trong ảo giác.



Vẫn là trong sương, nhưng sương ở lưng chừng núi. Một người con gái tản bộ trên những con đường mòn, váy nàng vén tận lên đầu gối để khỏi bị ướt. Ngọc Tà băng qua những con suối trắng, nước ngập hầu hết đôi chân ngọc ngà của nàng. Bàn chân của nàng quắp lấy những hòn đá cuội nơi đáy suối, cái lạnh cái buốt của buổi sáng sớm không thể ngăn nổi người con gái này. Đường đến Đàm bản vẫn còn rất xa, xa xôi và mờ mịt như chính tương lai của nàng vậy. Không chỉ là những dòng nước chảy xiết, Ngọc Tà luôn phải bằng qua những con đường mòn lởm chởm đá núi, hai bên là những rặng cây già cành lá xum xuê. Con đường chỉ lọt thỏm giữa hai cánh rừng, nhiều lúc bước đi mà như cảm tưởng con đường đang dẫn tới cuống họng của một mãnh thú. Hổ, báo, sài, lang là những loài hung ác khi ăn thịt người. Nhưng ở đất Man này, rừng già mới là con thú đáng sợ nhất, bởi lẽ nó có thể nuốt chửng toàn bộ những con mãnh thú khác. Hổ báo hay sài lang, dù ít hay nhiều vẫn phải sống dựa vào rừng, còn ngược lại, nếu không có bọn chúng, mồi của rừng già đã có con người tự thân tìm đến.

Cứ mỗi lần đi mang cơm thế này, Ngọc Tà đều có đôi lần suy nghĩ mình sẽ nằm lại nơi này, và rồi những chiếc lá khô từ trên cây rụng xuống vùi lấp nàng đi. Cuối cùng là nàng mục ruỗng trong rừng, hay chăng chính rừng già đang tiêu hóa con mồi vậy. Đi một quãng xa không biết mấy mươi quăng để xuyên qua cánh rừng, lúc này Ngọc Tà đã lên đến gần đỉnh núi, ánh nắng chiếu xuống đầu nàng một cách yếu ớt. Trời vẫn còn lạnh cho dù đã sang xuân, con đường phía trước khá dốc vì nó càng ngày càng dẫn lên đỉnh núi, Đàm bản ở một độ cao có thể nguy hiểm cho chính những người dân của họ. Đá núi lởm chởm nhọn hoắt như những cây chông găm thẳng vào bàn chân nàng yếu ớt. Ngọc Tà lấy tay lau đi mồ hôi trên trán và ngẩng lên nhìn mặt trời. Chỉ là một vành sáng trắng giữa bầu trời âm u toàn mây xám xít. Có khi đến trưa lại tắt nắng không chừng? Cũng gần đến trưa rồi mà nhỉ? Nàng đi từ sáng sớm đến tận ban trưa mới có thể mang giỏ cơm đến Đàm bản, đến cho người chồng của nàng.

“Ô! Ngươi lại đến đấy ư?”

Một ông già tóc bạc chống gậy đi lại quanh quẩn nơi đầu ngõ cất tiếng hỏi. Dường như ngày nào ông ta cũng là người mà nàng bắt gặp. Cũng phải thôi, Đàm Dũ Trực dù sao cũng là người quán xuyến Đàm bản từ trước đến nay.

“Chào ông! Ông có thấy chồng cháu đâu không?” Ngọc Tà lễ phép và hạ giỏ cơm đặt lên hiên.

Nàng chưa bước lên cầu thang để vào trong nhà nhưng biết chắc Đàm Vân Thắng sẽ không ở đó. Chính xác thì gã chưa từng ở nhà khi nàng xuất hiện.

“Đâu đó quanh đây thôi… quanh đây!” Đàm Dũ Trực ngập ngừng.

Ông ta phả ra hơi thuốc rồi lại chống gậy bước đi chứ không ở lại tiếp chuyện với Ngọc Tà. Ông chẳng biết được Đàm Vân Thắng khi nào trở về, gã ra khỏi nhà từ lúc nào nữa. Tự nhiên, Đàm Dũ Trực thấy ái ngại cho cô gái kia, một bông hoa non xanh mơn mởn, ấy vậy có lẽ sẽ dần úa tàn mà thôi.

“Vậy cháu ở đây chờ một lát!”

Ngọc Tà nói rồi từ tốn sắp những đồ ăn ra hiên. Nàng mang cho chồng ba nắm cơm nếp, một gói thịt kho do chính tay nàng làm. Biết chồng ham rượu, Ngọc Tà cũng chuẩn bị sẵn một ống nứa to đựng đầy rượu ngon. Bày ra hiên xong Ngọc Tà lại lấy lá chuối khô đậy cẩn thận. Hi vọng khi Đàm Vân Thắng trở về sẽ thấy tấm lòng của nàng. Thức ăn của hôm trước sẽ chẳng còn qua ngày hôm sau, tất cả đã biến mất. Mặc dù không biết là Đàm Vân Thắng hay lũ mèo hoang, Ngọc Tà cũng tự an ủi đó là chồng mình đã ăn hết chúng.

Ngọc Tà ra chum nước rửa chân rồi quay trở vào ngồi lên bậc cầu thang. Nàng vẫn chờ đợi như bao hôm khác. Chờ chồng, cũng giống như chờ đợi tương lại tươi sáng hơn. Hai má ửng lên vì mồ hôi và quãng đường dài, Ngọc Tà ngồi đó không che dấu nổi vẻ mơn mởn tươi xanh của tuổi trăng tròn. Đóa hoa rừng này đã có chủ nhưng chủ của nó lại luôn hững hờ. Tiếc thay, mối nhân duyên sắp đặt không có kết cục viên vãn.

Ngọc bản chủ cùng vợ là bà Đàm Cả ra sức ngăn cản Ngọc Tà không cho nàng mang cơm đến Đàm bản vì bọn họ thương con. Từ bé nàng đã chẳng phải đụng tay đụng chân và có người hầu kẻ hạ. Sau khi lấy chồng thì phải tự thân vào bếp, sáng sớm lặn lội đường xa mang cơm cho chồng. Ngọc Nguyên Đãng ghét cay ghét đắng con rể và ông cũng thầm trách cứ con gái của mình dại dột. Vì lo đường xa nên ông muốn cho người hầu mang cơm thay Ngọc Tà hoặc chí ít cũng phải có người đi theo bảo hộ. Tất cả Ngọc Tà đều không nghe, nàng muốn lủi thủi một mình. Có người đi theo bảo hộ chẳng khác nào không thể hiện thành ý với cuộc hôn nhân này. Như thế sẽ nguy hiểm cho Ngọc bản, nhất là với một người khó đoán như Lư Trường.

Duy chỉ có Ngọc Nguyên Diên ủng hộ nàng trong việc đưa cơm. Nó quát vào mặt bố mẹ khi họ ngăn cản chị mình làm việc đó. Chẳng biết vì sao nữa? Có thể nó thương chị mình và đặc biệt nó ghét cái tính tu tu òa khóc của bà mẹ. Rách việc lắm thay. Ngọc Tà thấy vui vì có em trai ủng hộ nhưng nàng cũng thấy lo sợ vì tính nết của nó. Nó suy nghĩ mông lung lắm, nó nói nếu muốn chị mình trở về Ngọc bản, nếu muốn hủy đi hôn ước thì… chồng nàng phải chết!

Lấy chồng có nghĩa là đã bị đuổi ra khỏi Ngọc bản, thế nhưng cái bụng của nàng mãi chẳng vẫn không chịu phình lên thì làm sao được công nhận là con dâu chính thức của Đàm bản đây?

Ngọc Tà từ bông hoa thơm bỗng chốc trở thành con ma không chốn đi về. Buồn lắm! Buồn lắm đấy giàng ơi!



Những tiếng cười nói vui vẻ trong nhà vang lên, ngôi nhà gỗ rộng chừng năm gian của Ngọc Nguyên Đãng nằm trên một mảnh đất bằng phẳng và độ cao thấp hơn Đàm bản. Sau nhà là con suối nhỏ mà Ngọc Nương đặt tên nó là Ngân Bích, nếu xuôi dòng Ngân Bích sẽ đi xuống chợ rồi từ đó có thể vòng ra đại lộ và Hổ khẩu, còn nếu ngược dòng sẽ xuyên qua rừng già và bước vào con đường mòn trên núi của Đàm bản. Chính Ngọc Tà cũng đi theo con suối Ngân Bích này để mang cơm cho chồng, còn những người dệt vải trong Ngọc bản thì sẽ xuôi dòng Ngân Bích mà đem xuống chợ. Lúc đầu mọi người cười chê Ngọc Nguyên Đãng vì ông ta chọ vị trí xây nhà thật ngớ ngẩn khi để nó quay lưng vào suối, nhỡ đâu có lũ sẽ chẳng chạy kịp. Nhưng tất cả đã phải kính nể ông ta khi biết Ngọc bản sử dụng Ngân Bích để làm gì. Con đường tắt tự nhiên này giúp cho Ngọc bản tiết kiệm rất nhiều thời gian khi mang hàng ra chợ, đồng thời cũng tránh được những phiền phức khi chạm trán với người Hữu ngạn, mặc dù một phần lợi tức Ngọc bản thu được Ngọc Nguyên Đãng cũng đã hoàn lại cho Hữu ngạn coi như mức phí để đổi lấy yên ổn làm ăn. Tuy vậy, làm ăn càng kiếm được thì sự nhũng nhiễu của Hữu ngạn ngày càng gia tăng. Đó là đối với Ngọc bản, còn đối với chị em Ngọc Nương thì con suối Ngân Bích gắn liền với tuổi thơ của họ. Những buổi chiều tà dẫn nhau nô đù bắt cá, rồi đến buổi đêm lén lút ra suối tắm tiên vì sợ cha biết. Càng lớn, những cuộc nô đùa như thế càng thưa dần, Nguyên Diên thích đi ăn với người bạn Chu Tuấn của mình hơn, chị Ngọc Tà thì nhốt mình trong phòng nhiều hơn. Còn lại Ngọc Nương, nàng muốn gắn kết hai người họ nhưng rồi bỗng trở nên lạc lõng lạ thường. Cuối cùng nàng là người gần cha mẹ nhất, cơm nước giặt giũ không phải lo vì có kẻ hầu người hạ nhưng thi thoảng mời cha uống nước mời mẹ ăn trầu Ngọc Ngương vẫn đích thân làm. Nàng cũng là người duy nhất đến nay vẫn ngủ với mẹ trong số ba chị em. Và người trong bản quen và gần gũi với Ngọc Nương hơn cả.

Trở lại với buổi tối, chính là Ngọc Nương đang bưng khay nước chuẩn bị mang lên nhà tiếp khách. Nàng đứng ở gian phía đông của căn nhà nơi gần với nhà bếp, phía đằng đối diện chính là phòng ngủ của nàng và bà Đàm Cả. Ngọc Nguyên Đãng từ lâu đã không thích nằm với vợ, không phải vì ông có người đàn bà khác, đơn giản là cái tính léo nhéo của vợ khiến ông không thể chú tâm vào làm ăn được. Ngọc Nguyên Đãng và con trai chiếm dụng hai gian nhà còn lại, Nguyên Diên chọn gian gần với suối Ngân Bích để hắn có thể dễ dàng nhảy tót qua cửa sổ mà vào rừng. Ngọc Nương lúc này đã bưng khay nước vào trong. Nàng nhún người quỳ xuống rồi đặt bát nước trước mặt của cha và người khách. Động tác vô cùng nhanh gọn và đứng lên cũng vậy. Ngọc Nương chẳng dám nán lại vì cái uy của người trong nhà khiến nàng thấy sợ. Từ sau khi hôn sự của chị, Lư Trường chăm đến nhà nàng hơn. Không biết có phải vì Ngọc bản đã lọt vào mắt xanh của ngài ấy hay không nhưng nàng chỉ biết mình rất sợ khi gặp người này.

“Mời… mời tộc trưởng uống nước!”

Ngọc Nguyên Đãng rón rén bê bát nước của mình bằn hai tay và đưa ra trước mặt. Lư Trường thấy vậy chỉ cầm cái bát đánh cạch một cái rồi tu hết trong miệng.

Nhạt!

Đó là cảm giác của Lư Trường về cái thứ ông ta vừa đưa vào bụng. Mặc dù được Ngọc Nguyên Đãng giới thiệu đây là thứ trà non hảo hạng đổi từ dưới xuôi nhưng Lư Trường chẳng ấn tượng mấy.

“Không biết… tộc trưởng có… có gì sai bảo?”

Đến cả uống nước còn chưa dám, Ngọc Nguyên Đãng vẫn giơ cao cái bát của mình mà hỏi gấp. Lư Trường tìm đến thì chẳng khác gì hổ dữ vào nhà vậy.

“Trong ngày Nhất Đẳng…” Lư Trường từ bộ dạng ngồi khoanh chân cho phải phép là khách bỗng ngả người sang phải, chân trái dựng lên và cái háng ông ta mở rộng. “Ngọc bản các người lắm rượu lắm cơ mà?”

Ngày lễ Nhất Đẳng thì mời khách bằng rượu, ấy vậy hôm nay chỉ dùng trà thôi, có phải khinh thường quá không? Ngọc Nguyên Đãng nghe vậy khuôn mặt liền tái nhợt đi. Ông ta đứng dậy gọi lớn:

“Ngọc Nương… Ngọc Nương! Mau… mau mang rượu lên đây!”

“Ngọc Nguyên Đãng…” Lư Trương từ tốn gọi.

“Mau… bình rượu hảo hạng ta chôn dưới góc nhà đó!”

“Ngọc Nguyễn Đãng!” Lư Trường lớn giọng hơn và nghiêm nghị hơn khiến đối phương phải hớt hải chạy vào và quỳ gối.

“Dạ… dạ dạ! Không biết tộc trưởng…”

“Miễn đi!”

“Vậy…” Ngọc Nguyên Đãng vừa sợ vừa khó hiểu.

“Ta đến đây có phải để đòi dăm ba hớp rượu nhà ngươi không?”

Lư Trường quắc mắt nhìn sang làm cho đối phương vô cùng sợ hãi. Ánh mắt giống thú thì nhiều mà người thì ít ấy luôn làm Man tộc cảm tưởng cái chết đã sắp cận kề.

“Thuộc hạ không dám! Thuộc hạ đáng chết!”

Ngọc Nguyên Đãng lúc này không còn cách nào khác là phải quỳ sụp xuống xin tha tội, mặc dù cái tội của ông cũng rất mơ hồ.

“Ngồi dậy!” Lư Trường ra lệnh.

Ngọc Nguyên Đãng nghe vậy lại phải khúm núm ngẩng lên, hai bàn tay ông ta liên tiếp chà vào nhau khiến cho mồ hôi túa ra, đồng thời mục quang chỉ dán vào mấy tấm gỗ lát sàn chứ chẳng dám hướng đến nhân vật đối diện.

“Không biết nhà ngươi có thể làm cho ta một việc được không?”

Lư Trường hất hàm về phía Ngọc Nguyên Đãng khiến ông ta run lên. Theo lời Ngọc Tà thì sau ngày Nhất Đẳng, Ngọc bản chắc chắn nằm trong tầm ngắm của Lư Trường, đó là lỗi của nàng khi không tính toán được sự trở về bất ngờ của ông ta đồng thời Mã Quang vô cùng tỉnh táo. Ngọc bản phát triển chưa lâu, chỉ từ sau khi Ngọc Nguyên Đãng phát hiện ra con suối Ngân Bích. Cũng vì lẽ đó mặc dù tài sản làm ra rất lớn nhưng cội rễ không sâu, rất dễ bị những thế lực khác nhòm ngó. Mà muốn có căn cơ vững chắc, ở cái đất Man hung hiểm này, cách duy nhất là dựa vào sức mạnh. Điều ấy thì Ngọc bản lại không có, hoặc dường như Tả ngạn đều không có. Mông Phúc, Chu Tuấn đều là những kẻ chuyên về làm ăn. Khác hẳn với Hữu Ngạn, ngoài hai vị trưởng lão quá đỗi thâm sâu thì anh em Quách Viễn Hùng, Quách Viễn Tầm và cả Đinh Cùng nữa đều là những phường võ dũng. Chính vì vậy mối lo ngại của Ngọc Tà là thực sự cần thiết, Tả ngạn so với Hữu ngạn mà nói hết sức mỏng manh.

Lần này Lư Trường tìm đến, liệu sẽ là nguy hiểm gì đây?

“Tộc… tộc trưởng có gì sai bảo, Ngọc bản cho dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng nhất định cũng khôn từ nan.” Ngọc Nguyên Đãng hồi hộp.

“Các ngươi quen dệt vải… liệu có thể nào dệt được giáp mây hay không?”

“Giáp mây?” Ngọc Nguyên Đãng ngớ người.

Ngoài áo lông thú rừng dành cho các tráng sĩ và thợ săn thì giáp mây chính là trang phục chính của binh lính Man tộc. Lư Trường ra lệnh cho Ngọc bản phải dệt giáp mây chứng tỏ…

“Đúng vậy! Giáp mây, ta hỏi… các ngươi có dệt được không?”

Lư Trường trở nên nghiêm nghị, ánh mắt ông ta dường như trở thành màu đen. Không phải ông ta đang hỏi mà thực chất là câu ra lệnh đấy thôi. Ngọc bản cho dù không dệt nổi cũng phải trả lời thành có.

“Có có! Dạ có! Ngọc bản nhất định làm được! Xin tộc trưởng ngài cứ ra lệnh!”

“Được! Khi nào ta nhìn thấy ba lần trăng tròn nữa, Ngọc bản các ngươi phải giao ra năm nghìn giáp mây. Nếu không… sẽ không còn cái gọi là Ngọc bản.”

Lư Trường chẳng thèm ngồi trong căn nhà bí bách này nữa, thứ trà của Ngọc Nguyên Đãng làm ông ta thấy càng uống càng khát. Mặt trăng tròn thật, tuần trăng đầu tiên của năm mới nếu theo tục của người Tiên tộc. Giờ này có khi bọn chúng còn đang say sưa ý chứ? Cứ để cho chúng say sưa đi.

“Không chỉ Ngọc bản các ngươi, Chu bản và Mông bản cũng vậy. Nhớ lấy, lần trăng tròn thứ ba kể từ bây giờ, mỗi sơn bản của Tả ngạn hãy giao ra năm nghìn bộ giáp mây.”

Mệnh lệnh đã được ban xuống, Tả ngạn buộc phải dừng hết công việc dệt vải để chuyển sang đan giáp mây cho Lư Trường. Một mũi tên đã bắn trúng hai đích, con đường làm ăn của Ngọc bản phải dừng lại đồng nghĩa với việc tài sản bọn họ sẽ chẳng thể làm ra được nữa, đồng thời Ngọc bản cũng không tài nào cầu cứu hai đồng minh là Mông Phúc và Chu Tuấn khi bọn họ cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.

“Lần trăng tròn đầu tiên!” Lư Trường bước ra ngoài cửa và chỉ tay lên trời, ánh sáng mờ nhạt vẫn le lói đâu đó trên bầu trời. Hôm nay quả không tốt với Ngọc bản. Trăng tròn rồi kìa!

Lần trăng tròn thứ ba, nghĩ là chỉ còn hai tháng nữa, từng ấy bộ giáp mây phải được giao nộp. Một thử thách không hề nhỏ dành cho Tả ngạn, một bài toán khó mà Lư Trường đã đặt ra.

Liệu có phải là hình phạt dành cho Ngọc bản vì đã gây náo loạn một phen trong lễ Nhất Đẳng?

Cái đích thứ ba Lư Trường nhắm đến…

“Ta… Lư Trường! Chiến tranh bắt đầu!”



“Núi rừng Man tộc quả thực u minh trùng trùng, mỗi lần đến đây ta…”

Một con ma rừng vừa nghĩ vừa lấy tay khoác lên vai mình một tấm áo choàng. Không,… hắn không phải là ma rừng, hắn không thuộc về Man tộc cho nên cũng chẳng quen thổ nhưỡng nơi này. Sang năm mới rồi nhưng trời còn lạnh, thậm chí có hôm lạnh buốt. Một mình lang thang chốn hoang vu quả thực đôi lúc cũng thấy cô đơn là lạ. Thế nhưng…

“Ta quen rồi! Và người ta chờ cũng sắp đến rồi!”

Lách tách vài thanh củi cháy, người thanh niên cầm một thanh nhỏ gẩy gẩy vào giữa đám lửa để cho chúng bùng lên to hơn. Từng hạt than hồng nhỏ li ti bị hơi nóng hầm hập đẩy lên bay vào không trung. Cứ thế hòa vào bản nhạc của đốm lửa giữa trời đêm mù mịt. Hai bàn tay giơ ra về phía ngọn lửa để thu lấy nhiệt lượng. Quãng đường đi dài dằng dặc khiến nó trở nên lạnh buốt và tê cứng. Cả thân hình của người thanh niên cũng vậy, thi thoảng hắn lại run lên mấy hồi. Trời đêm lạnh thật, hắn ta đã phải lót lên phiến đá mình đang ngồi một mảnh vải lông dày nhưng xem chừng vẫn không ăn thua, cảm giác thực là khó chịu.

“Tộc trưởng! Phía Ngọc bản đồng ý rồi chứ?” Xa xa có tiếng nói vọng lại. Tuy nhiên ánh mắt của người thanh niên không hề xuy chuyển. Hắn vẫn nhìn chằm chằm vào đốm lửa.

“Hỏi thừa! Đám Tả ngạn làm sao dám kháng lệnh của tộc trưởng. Nếu bọn chúng dám, nhất định Hữu ngạn sẽ san bằng chúng.”

Lư Trường sau khi rời khỏi nhà Ngọc Nguyên Đãng vẫn không hề nói gì. Lẽo đẽo sau lưng ông ta không chỉ có hai thuộc hạ trí dũng song toàn mà còn cả đám cận vệ bu lấy đằng sau. Chẳng phải giễu võ dương oai gì, nhưng tộc trưởng đi đến đâu, ít ra cũng phải có người bảo vệ. Đó là lập luận của Mã Quang, hắn luôn là người có tính cẩn trọng như thế. Còn người kia, với tính khí đao to búa lớn hơi động chút là sẽ nghĩ đến bạo lực, không ai khác chính là Thuần Lang.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà ba kẻ đứng đầu Man tộc cùng tụ lại một điểm, và cũng chẳng ngẫu nhiên khi có người đã chờ đợi từ rất lâu rồi. Người thanh niên không còn bận tâm xem tay mình cóng hay không nữa, hắn bắt đầu chỉnh chu lại trang phục. Chiếc áo choàng đen được mặc lại ngay ngắn, nó giống như lớp ngụy trang che đi tấm áo trắng toát mà người thanh niên đang mặc.

Mới bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình, Lư Trường vẫn đang trong những bước chuẩn bị. Đó là mưu kế sơ kì và tiền kì, ít ra cũng phải chuẩn bị kĩ càng cái đã. Thiên thời thì có sẵn nhưng thứ đầu tiên ông ta muốn chế ngự không phải là địch nhân mà là người trong tộc. Phải cho bọn Tả ngạn biết cái giá của sự làm càn. Hơn một vạn bộ giáp mây trong hai tháng, phen này thì chúng sẽ phải đau đầu rồi đây, sẽ chẳng còn thời gian cho những mưu kế viển vông kia nữa.

“Hừ!”

Lư Trường hừ lạnh sau hai câu nói của thuộc hạ. Ông ta thừa biết Mã Quang hỏi chỉ để thăm dò mà thôi, tên này có khi đã nghĩ đến mấy chuyện khác sâu xa hơn rồi cũng nên. Và… Lư Trường ghét nhất cái kiểu cố suy đoán ý nghĩ của người khác. Làm như hắn hiểu ông ta lắm ấy? Nhưng nếu không thế đã chẳng làm nên một trí giả tinh thông mọi kẽ của đất trời.

“Nộ Sư Loạn Vũ! Một chiêu quái kiệt trong tâm pháp thất truyền, xem ra Mã Quang còn nhiều điều chưa nói với ta đây?”

Lư Trường bỏ ngoài ý nghĩ về kế hoạch của mình, ông ta nghĩ đến Mã Quang và rồi bất chợt lại quay sang cả Thuần Lang nữa.

“Thuần Lang muốn giết Mã Quang, muốn diệt cả Tả ngạn? Đến lúc nào đó hắn có muốn hạ ta không?”

Dường như đối với Lư Trường không có kẻ nào trung thành tuyệt đối. Trung thành chỉ đến khi có sức mạnh vô song áp đảo mà thôi. Xét về thực lực, Mã Quang và Thuần Lang dù là nhân tài kiệt xuất nhưng vẫn chưa thể so với Lư Trường.

Sư tử mạnh nhưng là sư tử quá nhân từ. Sói tuy hung nhưng lại có phần hấp tấp!

Thêm một điểm chung của hai người đó nữa, bọn chúng còn rất trẻ. Trong khi Lư Trường đã quá lõi đời, ông ta là một con hổ, khi thì áp đảo chúng nhân, khi thì lạnh lùng chờ đợi. Một con hổ trưởng thành và già dặn, biết tiến biết thoái đúng vào thời điểm cần thiết.

Cái đó ở đất Man thường được gọi là… kĩ năng săn mồi!

“Hắn… đến rồi!”

Người thanh niên ngồi bên đường mòn chớp mắt một cái. Cuối cùng thì sự chờ đợi cũng có kết quả. Tay phải của hắn với xuống đất lấy cái mũ tre và đội lên đầu, mái tóc dài tự động tung bay ở dưới mang tai. Tay trái của hắn cầm vật gì đó và đưa lên mặt. Tầm nhìn thu nhỏ lại chỉ bằng hai cái lỗ nhỏ như đầu ngón tay. Rõ ràng vật đó đã che gương mặt của hắn lại.

Lư Trường phát hiện ra ánh lửa liền ngày lập tức ra hiệu cho thuộc hạ dừng lại. Uống được bát trà nhà Ngọc Nguyên Đãng làm cho ông ta khát khô cả cổ. Bản năng săn mồi trong chốn Man tộc hoang vu báo hiệu sau đây sẽ có dị sự dành cho Lư Trường.

Người thanh niên áp mặt nạ xong thì cảm giác vô cùng khoan khoái. Chiếc lưỡi đỏ thè ra như muốn liếm lấy ngọn lửa phía trước ngay thức thì.

Phụt!

Đống lửa vụt tắt và gió lộng nổi lên làm những tán cây rừng kêu khóc ào ào.

A ha! Người quen đây rồi!

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK