Tri phủ nha môn, hậu trạch.
Trong nhà chính có đặt một chiếc bàn vuông bằng gỗ lê vàng, Trần Bá Tông ngồi ở chính giữa, còn Du Tú ngồi ở chỗ đầu tiên bên phải.
Du Tú gả cho y được hai năm đã sinh con gái, từ đó về sau hai vợ chồng rất hiếm khi có cơ hội ăn cơm riêng như thế này.
Ăn không nói ngủ không nói, Du Tú hơi cúi đầu, lặng yên gắp đồ ăn trước mặt mình.
Trần Bá Tông nhìn nàng vài lần.
Lát nữa nàng còn phải đến Ninh Viện của Công chúa làm khách, có thể còn phải tiếp đón đám người Tương Vương phi cùng với Công chúa. Để không mất thể diện, bình thường nàng không ăn diện gì nhiều nhưng hôm nay lại mặc một chiếc áo bối tử* bằng gấm thêu hoa màu hồng, trên đầu cài trâm, hoa cài đầu khảm hồng ngọc, trên tai đeo một đôi hoa tai bạch ngọc. Nàng vốn có làn da trắng nõn, nhờ những vật ngoài thân này làm nền, càng trở nên xinh đẹp rung động lòng người.
Tính nàng tiết kiệm, sau khi gả vào Trần gia mỗi tháng đều được nhận năm lượng bạc tiền tiêu vặt, nhưng hình như nàng chưa từng mua cho mình thứ gì, mộc mạc đến mức mẫu thân còn dặn hắn để lại chút tiền riêng cho nàng mua đồ trang sức khi hắn ghi chép sổ sách bổng lộc, hắn không giữ lại, mẫu thân cố tình cho hắn hai mươi lượng bạc vào ngày sinh nhật để mua lễ vật tặng riêng cho nàng, không mang theo lễ vật về sẽ không cho hắn vào cửa.
Hoặc là đồ Hoàng thượng ban thượng, phụ thân mang về nhà, mẫu thân sẽ chia ra, để lại một phần lụa là gấm vóc, một phần thì lấy ra làm xiêm y cho cả nhà. Khi ấy nàng sẽ nhận được một bộ đồ mới chất liệu tốt cùng với đồ trang sức đẹp.
Thế này là vì mẫu thân thương nàng, nếu như mẫu thân là một người keo kiệt, phàm là đồ gì tốt đều muốn giữ trong tay không muốn chia cho con dâu, thì với tính tình của nàng, sợ là hôm nay cũng khó mà có quần áo đầy đủ.
Ăn cơm xong, súc miệng xong, nha hoàn mang mũ quan của Trần Bá Tông tới.
Du Tú nhận lấy, tự mình đội cho trượng phu.
Quan bào của Tri phủ tứ phẩm có màu đỏ thẫm, chính giữa là bổ tử* thêu vân nhạn, Du Tú liếc mắt nhìn trượng phu một cái rồi lại nhìn con vân nhạn đang giương cánh muốn bay kia, nghĩ trượng phu của mình và vân nhạn đều có vẻ tuấn tú cao quý như nhau.
“Đến bên kia rồi, mọi chuyện cứ nghe theo Công chúa, đừng câu nệ quá.”
Khi nàng lùi ra sau, Trần Bá Tông suy nghĩ một lát bèn dặn dò.
Du Tú vốn đang căng thẳng, bị y nhắc nhở như vậy lại càng lo lắng hơn. Nàng định cúi đầu xuống theo bản năng, nhưng rồi phản ứng lại được đây là trượng phu đang dặn dò chuyện nàng không làm được, trong lúc nhất thời cúi đầu cũng không phải mà nhìn thẳng vào y cũng không xong.
Trần Bá Tông hơi lắc đầu đi ra ngoài, bước chân ra khỏi cửa rồi y lại dừng lại, nhìn nàng nói: “Nếu Công chúa giữ nàng ở lại bên đó ăn cơm tối, nàng không cần từ chối. Sau khi hạ triều ta sẽ đến đón nàng, vừa lúc ta có chuyện cần nói với tứ đệ.”
Du Tú nghe thấy y bảo có chuyện cần tìm em trai nên không từ chối, hỏi: “Nếu Công chúa giữ ta lại dùng cơm, ta cũng nói là buổi tối chàng sẽ tới sao?”
Trần Bá Tông: “Không cần, ta sẽ ăn rồi mới qua.”
Du Tú đã hiểu, y không dám coi Công chúa như em dâu bình thường, có thể tùy tiện ngồi chung một mâm cơm với nhau.
Nàng nhìn Trần Bá Tông đi tới nha môn đằng trước, nhớ rằng Công chúa dặn nàng qua từ sớm, Du Tú cũng không trì hoãn nữa, dẫn nha hoàn Bích Đào đi ra khỏi phủ từ cửa hông, sau đó lên xe ngựa.
Hai nhà chỉ cách nhau có ba con phố, chẳng mấy chốc đã đến nơi.
Du Tú xuống xe ngựa, nhìn thấy bốn thị vệ đứng canh gác trước cổng lớn Ninh Viện. Bên ngoài tường gạch cao ngất là các thị vệ đứng cách nhau một đoạn nhất định, canh chừng nghiêm ngặt.
Lúc này, Triều Nguyệt từ bên trong đi ra, đi bên cạnh nàng ấy là một vị công công nho nhã sạch sẽ.
“Đại phu nhân tới rồi, Công chúa mong ngóng người từ sáng sớm.”
Triêu Nguyệt tươi cười xán lạn hành lễ, nói.
Thấy gương mặt quen thuộc, Du Tú hơi bình tĩnh lại.
Triều Nguyệt giới thiệu Ngô Nhuận với nàng.
Du Tú biết bên người nhóm Hoàng tử Công chúa đều có thái giám đi theo hầu hạ, nhưng nàng không ngờ rằng thái giám cũng có thể tuấn tú đến như thế. Chẳng qua ngẫm lại, khuôn mặt Công chúa đẹp như thế, người hầu hạ xung quanh cũng phải như nhóm người Ngô Nhuận, Triều Vân mới không làm nàng mất thể diện.
Tê Phượng điện có một phòng khách chuyên dùng để đón khách. Trong thời tiết này hoa mai hoa đào còn chưa nở, nhưng hoa trà lại nở bung rực rỡ, từng bông hoa to cỡ bằng miệng chén lớn nhỏ, tươi đẹp kiều diễm.
Du Tú nhìn thấy Hoa Dương nằm trên ghế quý nhân đầu tiên, váy lụa màu vàng sáng hoa lệ rườm rà bao lấy mỹ nhân quốc sắc thiên hương, khiến người ta khó mà dời ánh mắt.
Sau đó mỹ nhân nở nụ cười, gọi nàng: “Mới hai ngày không gặp, chẳng lẽ đại tẩu đã không nhận ra ta sao?”
Du Tú phục hồi tinh thần lại, lảo đảo đi vào.
Mỹ nhân trên đời này đúng là núi cao còn có núi khác cao hơn. Hàng xóm láng giềng đều khen nàng có khuôn mặt đẹp, lúc tam đệ muội được gả đến, nàng đã có cảm giác được mở rộng tầm mắt. Nhưng khi Công chúa tôn quý tái giá tới đây, Du Tú đã nghĩ tầm mắt của nàng được mở ra hết cỡ rồi, trên đời này tuyệt đối không có nữ nhân nào đẹp hơn Công chúa được nữa.
Nàng bị giật mình vì cách trang điểm mới của Hoa Dương, Hoa Dương cũng để ý tới quần áo và đồ trang sức của Du Tú, nhìn hơi quen mắt. Tháng giêng năm ngoái, khi tin lão thái thái của Trần gia còn chưa truyền về Kinh thành, hình như nàng từng thấy Du Tú đã dùng rồi.
Hoa Dương có rất nhiều đồ trang sức không cần dùng đến, lụa là gấm vóc lại càng nhiều tới mức chất thành rương đầy khắp khố phòng. Nàng không ngại đưa cho Du Tú nhưng chỉ sợ Du Tú coi đó như bố thí, trong lòng cảm thấy không dễ chịu.
“Đại tẩu tới đây ngồi đi, ở đây chỉ có đại tẩu và ta mà thôi, cách xa như vậy làm gì.”
Hoa Dương chỉ chỉ một bên còn trống của ghế quý phi, thân mật nói.
Du Tú đỏ mặt bước tới.
Triều Vân dâng nước trà lên, Hoa Dương cười cười nói chuyện phiếm với nàng: “Bên đại tẩu dàn xếp thế nào rồi? Các tỳ nữ trong nha môn có nghe lời không?”
Có chuyện mình có thể nói khiến Du Tú bình tĩnh lại, đáp: “Bên cạnh ta vẫn còn Bích Đào, Bích Hà hầu hạ, những nha hoàn khác đều cho đi làm việc nặng, bây giờ vẫn còn an phận.”
Hoa Dương gật đầu: “Vậy đại ca thì sao, ở nha môn có bận lắm không?”
Du Tú thở dài: “Việc cần làm rất nhiều, hôm qua trời tối rồi mới thấy chàng về.”
Làm quan vừa nhậm chức, Trần Kính Tông không có quá nhiều chuyện phải làm ở Vệ Sở, Trần Bá Tông quản lý sự vụ của cả một phủ, chắc chắn sẽ bận rộn hơn. Chỉ có điều Trần Bá Tông đã làm việc ở Đại Lý tự sáu bảy năm, kinh nghiệm làm quan cũng coi như phong phú, là người khiến người khác bớt lo nhất trong số ba huynh đệ của Trần gia.
Hoa Dương lại hỏi Du Tú: “Ngoại trừ Tương Vương phi, đại tẩu có biết hai vị khách nhân khác hôm nay ta cần chiêu đãi có lai lịch gì không?”
Du Tú cười nói: “Ta vốn không rõ lắm, đưa thiệp mời cho trượng phu xem xong, chàng có nói với ta một chút, sau đó ta đã biết Bạch gia là danh gia vọng tộc ở đây, Lăng Nguyên Huyện quân dù mới ngoài ba mươi tuổi nhưng lại có vai vế cao, hình như Tương Vương gia cũng phải gọi nàng ấy một tiếng tổ cô.”
Tổ cô này là ý chỉ tỷ muội của tổ phụ, vị tổ phụ này có thể là thân tổ phụ, cũng có thể là đường tổ phụ của một chi khác, tổ cô cũng bao gồm cả đường tỷ muội.
Ở triều đại này, hoàng thân quốc thích rải rác khắp nơi, giống như Hoa Dương gọi Tương Vương là thúc phụ nhưng thực ra quan hệ máu mủ giữa hai người rất nhạt. Lăng Nguyên Huyện quân và Tương Vương cũng giống như thế.
Bây giờ vẫn còn sớm, Hoa Dương bèn mời Du Tú đi dạo trong viện.
Trong lúc đó, Tương Vương phi, Lăng Nguyên huyện quân và Kỷ lão phu nhân Bạch gia cũng lục tục mang theo lễ vật tới.
Bọn họ hành lễ gặp mặt nhau xong, Hoa Dương ngồi một mình ở vị trí chủ vị, Tương Vương phi, Lăng Nguyên Huyện quân ngồi phía bên trái nàng, Du Tú và Kỷ lão phu nhân ngồi bên phải.
Sau khi trải qua một canh giờ ở cạnh Hoa Dương, lúc Du Tú nhìn thấy Tương Vương phi khí thế không bằng Hoa Dương cũng không còn cảm thấy lo sợ gì nữa.
Hoa Dương không cần lo lắng cho nàng, nên mọi sự chú ý đều dồn về phía Tương Vương phi và Lăng Nguyên Huyện quân.
Hai người này, một là thê tử của Tương Vương, một người là nữ nhân đời trước bị Tương Vương hại chết thê thảm.
Tương Vương phi bốn mươi sáu bốn mươi bảy tuổi, tuổi tác tương đương với mẹ chồng Tôn thị. Chỉ có điều thân hình Tôn thị mượt mà, gương mặt phúc hậu hòa ái dễ gần. Còn gương mặt Tương Vương phi lại rất gầy, nét mặt cũng toát ra vẻ lạnh lùng, gương mặt như vậy trái lại khiến Hoa Dương càng trông có vẻ tươi tắn hơn rất nhiều.
Lăng Nguyên Huyện chúa trẻ hơn Tương Vương phi mười tuổi.
Nàng ấy không có diện mạo vô cùng xinh đẹp, chí ít cũng không phải là dạng vừa nhìn một cái đã khiến người ta giật mình. Chỉ là cuộc sống thủ tiết nhiều năm khiến vẻ u buồn nhợt nhạt tích tụ lại trên gương mặt của nàng ấy, thỉnh thoảng cúi đầu cụp mắt nhìn xuống trông nàng ấy như một đóa ngọc lan trắng như tuyết sắp bị nước mưa tạt cho rụng khỏi cuống, khiến người khác nhìn thấy thương tiếc.
Chính vì yếu đuối như vậy mới treo cổ tự sát khi bị Tương Vương làm nhục.
Nghĩ đến kết quả bi thảm của Lăng Nguyên Huyện quân, cái nhìn của Hoa Dương đối với Tương Vương phi lại càng tệ hơn.
Quả thật Tương Vương phi mới là đầu sỏ gây ra chuyện đó, nhưng Tương Vương phi cũng là tòng phạm trợ giúp. Nếu như bà ta không đứng ra mời Lăng Nguyên Huyện quân, thì một người đã là quả phụ không mấy khi bước chân ra khỏi cửa như Lăng Nguyên Huyện quân sẽ mạo muội đến viếng thăm một người họ hàng xa như vậy? Nếu là Tương Vương phi mời, tại sao bà ta lại để Lăng Nguyên Huyện quân bị lạc khỏi mọi người? Hiển nhiên là Tương Vương đã đánh tiếng với bà ta từ trước, hai vợ chồng hợp tác dụ Lăng Nguyên Huyện quân vào bẫy.
Trong lòng không thích, nhưng trên mặt Hoa Dương không thể hiện ra bất cứ thái độ gì, giống như một Công chúa được nuông chiều từ Kinh thành tới, ôn hòa đón tiếp hai vị bà con xa đến chơi.
Kỷ lão phu nhân cáo từ đầu tiên.
Hoa Dương cũng không giữ bà ta lại, chỉ mời thân tẩu tử và Tương Vương phi cùng với Lăng Nguyên Huyện quân ở lại Ninh Viện dùng bữa trưa.
Sau khi ăn xong Lăng Nguyên Huyện quân cũng cáo từ, Tương Vương phi ở lại uống trà.
Hoa Dương nhìn ra ý đồ của bà ta, nói với Du Tú: “Đại tẩu cũng mệt nhọc rồi đúng không, tẩu đến khách phòng nghỉ ngơi trước đi, ta và Vương phi đây nói chuyện một lát.”
Du Tú hiểu chuyện, rời đi cùng với Triều Vân.
Nàng vừa đi, Tương Vương phi đã cười nói với Hoa Dương: “Công chúa đi đường xa đến đây, ta và Vương gia chuẩn bị riêng hai món lễ vật nhỏ tặng Công chúa, bày tỏ tấm lòng.”
Hoa Dương cười nói: “Ngài và Vương thúc khách sáo quá.”
Lúc trước nàng luôn miệng gọi hai vợ chồng họ là “Vương gia”, “Vương phi”, bây giờ gọi như thế này nghe có vẻ như vì có lễ vật nên sửa lại cách gọi.
Tương Vương phi nghĩ, Công chúa mỹ nhân này đúng là một người tham tiền.
Có ai mà ngại nhiều tiền chứ, Hoàng đế còn tham tài, huống gì một Công chúa.
Tương Vương phi cảm thấy chắc chắn, nha hoàn chờ ở cạnh xe ngựa mang lễ vật tới, Tương Vương phi tự mình giới thiệu cho Hoa Dương: “Đây là “Tranh trúc cầm” do Huy Tông của tiền triều vẽ nên, lão Vương gia tình cờ có được, Vương gia nói ngài ấy là người thường, không biết thưởng thức tranh chữ. Món này nếu cứ để lại ở Vương phủ cũng phí phạm, nghe nói Công chúa thích tranh vẽ, không bằng đưa cho Công chúa đánh giá.”
Trong lúc Tương Vương phi đang nói về “Tranh trúc cầm”, Hoa Dương nhẹ nhàng hít vào một hơi khó phát hiện.
Tương Vương phi chỉ coi như không nghe thấy gì, chờ đến khi Hoa Dương nhìn hết một khắc đồng hồ mới gian nan thu hồi lại ánh nhìn, Tương Vương phi mới đưa ra phần lễ vật thứ hai.
Cái tráp này chia ra làm hai tầng, tầng trên là đế gỗ đàn hương đỏ sang trọng, tầng dưới là pho tượng Quan Âm đứng làm từ dương chi bạch ngọc.
Đối với Hoa Dương mà nói, khối dương chi bạch ngọc lớn như thế không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ là bức tượng Quan Âm này được chạm trổ rất tinh xảo, đường cong từ trên xuống dưới mượt mà trông rất sống động, khiến người nhìn không nỡ đụng vào.
Hai món lễ vật này, cái nào cũng là báu vật hiếm có, để trong quốc khố hoàng gia cũng có thể giữ một vị trí nhỏ.
Hoa Dương thưởng thức xong, nhìn Tương Vương phi với ánh mắt sâu xa, nói: “Vương thúc hào phóng như vậy, nếu không có mong muốn gì, ta cũng không dám nhận.”
Tương Vương phi cười xòa: “Nếu như Công chúa đã nói như thế thì ta cũng không giấu diếm nữa. Không giấu gì Công chúa, đúng là Vương gia gặp phải chút phiền phức.”
Sau đó bà ta khéo léo nhắc đến việc trước khi mùa mưa năm nay đến, Tương Vương cần phải xây đắp lại một tòa viện, cho nên mới điều một ít binh lính Vệ Sở đi làm.
“Chỉ cần dùng bọn họ trong vòng bốn tháng mà thôi, xin Công chúa hãy nói một tiếng với Phò mã, để Phò mã dàn xếp một chút…”
Vẻ mặt Hoa Dương ung dung, cười nói: “Chuyện này đơn giản, đêm nay hắn về ta sẽ mắng hắn một trận. Hắn cũng đần lắm, tuy nói rằng quan mới nhậm chức phải sáng như ba cây đuốc, nhưng hắn cũng không thể mang đuốc ra đốt cả người hoàng thân quốc thích chúng ta được.”
Tương Vương phi âm thầm thở dài nhẹ nhõm một hơi, chỉ sợ bản thân vô tích sự không làm được việc, lúc về Vương gia sẽ trút giận lên người bà ta.
Chuyện đã được giải quyết xong, Tương Vương phi không ở lại nữa.
Xe ngựa rời khỏi cổng lớn Ninh Viện, vòng qua mấy con phố, cuối cùng dừng lại trước cửa Tương Vương phủ.
Nửa ngày hôm nay Tương Vương chỉ nghĩ đến chuyện tặng quà này.
Phần lễ vật này của ông ta có giá trị vượt xa đám binh sĩ Vệ Sở chỉ có thể bán sức lao động, thậm chí còn đủ mua thêm vài tòa sân viện nữa.
Tương Vương quyết định bỏ những thứ yêu thích là vì muốn hoàn toàn mua chuộc vị Công chúa đến từ Kinh thành kia, để cho nàng ta có nghe được những chuyện gì không hợp quy củ thì cũng đừng tới tìm ông ta.
Quan viên địa phương sợ hãi ông ta, không dám đi vạch trần tội ác của ông ta với triều đình, cho dù có bị vạch trần thì Cảnh Thuận đế có lẽ cũng sẽ nể mặt ông ta vài phần vì là hoàng thân quốc thích mà nhẹ nhàng buông tha, nhưng nếu Hoa Dương một hai phải đối nghịch với ông ta thì cũng phiền phức.
“Thế nào, Công chúa nhận không?”
Vợ chồng vừa chạm mặt, Tương Vương đã vội vàng hỏi.
Tương Vương phi cười nói: “Nhận, Vương gia thật là có mắt nhìn, Công chúa nhìn Quan Thế Âm không có vẻ gì là ngạc nhiên, nhưng thấy “tranh trúc cầm” lại phải hít sâu.”
Tương Vương đắc ý cười, ông ta biết “tranh trúc cầm” quý giá, nhưng ông ta không thích mấy thứ nho nhã đó, nên không ngại gì tặng bức tranh vô dụng đó đi.
“Công chúa còn nói, đêm nay nàng ta sẽ mắng Phò mã một trận, không cho phép hắn nhúng tay vào chuyện binh lính bên kia nữa.”
Tương Vương suy nghĩ về chữ “mắng” này, tâm trạng cũng tốt hơn. Ông ta chỉ biết, cách vị Công chúa được nhận hết sủng ái đối xử Phò mã không khác gì cách ông ta đối xử với vị Vương phi này của mình, căn bản đều chỉ là món đồ chơi mà thôi. Lúc nào tâm trạng tốt thì trêu chọc mấy câu, tâm trạng không tốt thì muốn đánh là đánh, muốn mắng cứ mắng.
Ánh mắt khinh miệt của ông ta đảo qua gương mặt không còn xinh đẹp từ lâu của Vương phi, Tương Vương ngồi xuống cái ghế bên cạnh, hỏi một chuyện khác: “Diện mạo Công chúa thế nào, có kiêu sa tuyệt trần như lời đồn không?”
Tương Vương phi cụp mắt, thật thà gật đầu.
Tương Vương ước mơ trong chốc lát nhưng rồi lập tức tiếc rẻ mà thở dài. Cho dù lá gan ông ta có lớn hơn nữa cũng không dám với tay tới chỗ Hoa Dương, trừ phi Hoa Dương phong lưu coi trọng ông ta trước.
*áo bối tử: bối tử 褙子 (thời Tống), phi phong (thời Minh), và nhật bình (thời Nguyễn), là một dạng áo Đối khâm. Mỗi thời đại, kiểu dáng sẽ thay đổi đôi chút.
*bổ tử: miếng vải vuông thêu hoa văn ở giữa hai vạt áo quan phục thời xưa.
Trong nhà chính có đặt một chiếc bàn vuông bằng gỗ lê vàng, Trần Bá Tông ngồi ở chính giữa, còn Du Tú ngồi ở chỗ đầu tiên bên phải.
Du Tú gả cho y được hai năm đã sinh con gái, từ đó về sau hai vợ chồng rất hiếm khi có cơ hội ăn cơm riêng như thế này.
Ăn không nói ngủ không nói, Du Tú hơi cúi đầu, lặng yên gắp đồ ăn trước mặt mình.
Trần Bá Tông nhìn nàng vài lần.
Lát nữa nàng còn phải đến Ninh Viện của Công chúa làm khách, có thể còn phải tiếp đón đám người Tương Vương phi cùng với Công chúa. Để không mất thể diện, bình thường nàng không ăn diện gì nhiều nhưng hôm nay lại mặc một chiếc áo bối tử* bằng gấm thêu hoa màu hồng, trên đầu cài trâm, hoa cài đầu khảm hồng ngọc, trên tai đeo một đôi hoa tai bạch ngọc. Nàng vốn có làn da trắng nõn, nhờ những vật ngoài thân này làm nền, càng trở nên xinh đẹp rung động lòng người.
Tính nàng tiết kiệm, sau khi gả vào Trần gia mỗi tháng đều được nhận năm lượng bạc tiền tiêu vặt, nhưng hình như nàng chưa từng mua cho mình thứ gì, mộc mạc đến mức mẫu thân còn dặn hắn để lại chút tiền riêng cho nàng mua đồ trang sức khi hắn ghi chép sổ sách bổng lộc, hắn không giữ lại, mẫu thân cố tình cho hắn hai mươi lượng bạc vào ngày sinh nhật để mua lễ vật tặng riêng cho nàng, không mang theo lễ vật về sẽ không cho hắn vào cửa.
Hoặc là đồ Hoàng thượng ban thượng, phụ thân mang về nhà, mẫu thân sẽ chia ra, để lại một phần lụa là gấm vóc, một phần thì lấy ra làm xiêm y cho cả nhà. Khi ấy nàng sẽ nhận được một bộ đồ mới chất liệu tốt cùng với đồ trang sức đẹp.
Thế này là vì mẫu thân thương nàng, nếu như mẫu thân là một người keo kiệt, phàm là đồ gì tốt đều muốn giữ trong tay không muốn chia cho con dâu, thì với tính tình của nàng, sợ là hôm nay cũng khó mà có quần áo đầy đủ.
Ăn cơm xong, súc miệng xong, nha hoàn mang mũ quan của Trần Bá Tông tới.
Du Tú nhận lấy, tự mình đội cho trượng phu.
Quan bào của Tri phủ tứ phẩm có màu đỏ thẫm, chính giữa là bổ tử* thêu vân nhạn, Du Tú liếc mắt nhìn trượng phu một cái rồi lại nhìn con vân nhạn đang giương cánh muốn bay kia, nghĩ trượng phu của mình và vân nhạn đều có vẻ tuấn tú cao quý như nhau.
“Đến bên kia rồi, mọi chuyện cứ nghe theo Công chúa, đừng câu nệ quá.”
Khi nàng lùi ra sau, Trần Bá Tông suy nghĩ một lát bèn dặn dò.
Du Tú vốn đang căng thẳng, bị y nhắc nhở như vậy lại càng lo lắng hơn. Nàng định cúi đầu xuống theo bản năng, nhưng rồi phản ứng lại được đây là trượng phu đang dặn dò chuyện nàng không làm được, trong lúc nhất thời cúi đầu cũng không phải mà nhìn thẳng vào y cũng không xong.
Trần Bá Tông hơi lắc đầu đi ra ngoài, bước chân ra khỏi cửa rồi y lại dừng lại, nhìn nàng nói: “Nếu Công chúa giữ nàng ở lại bên đó ăn cơm tối, nàng không cần từ chối. Sau khi hạ triều ta sẽ đến đón nàng, vừa lúc ta có chuyện cần nói với tứ đệ.”
Du Tú nghe thấy y bảo có chuyện cần tìm em trai nên không từ chối, hỏi: “Nếu Công chúa giữ ta lại dùng cơm, ta cũng nói là buổi tối chàng sẽ tới sao?”
Trần Bá Tông: “Không cần, ta sẽ ăn rồi mới qua.”
Du Tú đã hiểu, y không dám coi Công chúa như em dâu bình thường, có thể tùy tiện ngồi chung một mâm cơm với nhau.
Nàng nhìn Trần Bá Tông đi tới nha môn đằng trước, nhớ rằng Công chúa dặn nàng qua từ sớm, Du Tú cũng không trì hoãn nữa, dẫn nha hoàn Bích Đào đi ra khỏi phủ từ cửa hông, sau đó lên xe ngựa.
Hai nhà chỉ cách nhau có ba con phố, chẳng mấy chốc đã đến nơi.
Du Tú xuống xe ngựa, nhìn thấy bốn thị vệ đứng canh gác trước cổng lớn Ninh Viện. Bên ngoài tường gạch cao ngất là các thị vệ đứng cách nhau một đoạn nhất định, canh chừng nghiêm ngặt.
Lúc này, Triều Nguyệt từ bên trong đi ra, đi bên cạnh nàng ấy là một vị công công nho nhã sạch sẽ.
“Đại phu nhân tới rồi, Công chúa mong ngóng người từ sáng sớm.”
Triêu Nguyệt tươi cười xán lạn hành lễ, nói.
Thấy gương mặt quen thuộc, Du Tú hơi bình tĩnh lại.
Triều Nguyệt giới thiệu Ngô Nhuận với nàng.
Du Tú biết bên người nhóm Hoàng tử Công chúa đều có thái giám đi theo hầu hạ, nhưng nàng không ngờ rằng thái giám cũng có thể tuấn tú đến như thế. Chẳng qua ngẫm lại, khuôn mặt Công chúa đẹp như thế, người hầu hạ xung quanh cũng phải như nhóm người Ngô Nhuận, Triều Vân mới không làm nàng mất thể diện.
Tê Phượng điện có một phòng khách chuyên dùng để đón khách. Trong thời tiết này hoa mai hoa đào còn chưa nở, nhưng hoa trà lại nở bung rực rỡ, từng bông hoa to cỡ bằng miệng chén lớn nhỏ, tươi đẹp kiều diễm.
Du Tú nhìn thấy Hoa Dương nằm trên ghế quý nhân đầu tiên, váy lụa màu vàng sáng hoa lệ rườm rà bao lấy mỹ nhân quốc sắc thiên hương, khiến người ta khó mà dời ánh mắt.
Sau đó mỹ nhân nở nụ cười, gọi nàng: “Mới hai ngày không gặp, chẳng lẽ đại tẩu đã không nhận ra ta sao?”
Du Tú phục hồi tinh thần lại, lảo đảo đi vào.
Mỹ nhân trên đời này đúng là núi cao còn có núi khác cao hơn. Hàng xóm láng giềng đều khen nàng có khuôn mặt đẹp, lúc tam đệ muội được gả đến, nàng đã có cảm giác được mở rộng tầm mắt. Nhưng khi Công chúa tôn quý tái giá tới đây, Du Tú đã nghĩ tầm mắt của nàng được mở ra hết cỡ rồi, trên đời này tuyệt đối không có nữ nhân nào đẹp hơn Công chúa được nữa.
Nàng bị giật mình vì cách trang điểm mới của Hoa Dương, Hoa Dương cũng để ý tới quần áo và đồ trang sức của Du Tú, nhìn hơi quen mắt. Tháng giêng năm ngoái, khi tin lão thái thái của Trần gia còn chưa truyền về Kinh thành, hình như nàng từng thấy Du Tú đã dùng rồi.
Hoa Dương có rất nhiều đồ trang sức không cần dùng đến, lụa là gấm vóc lại càng nhiều tới mức chất thành rương đầy khắp khố phòng. Nàng không ngại đưa cho Du Tú nhưng chỉ sợ Du Tú coi đó như bố thí, trong lòng cảm thấy không dễ chịu.
“Đại tẩu tới đây ngồi đi, ở đây chỉ có đại tẩu và ta mà thôi, cách xa như vậy làm gì.”
Hoa Dương chỉ chỉ một bên còn trống của ghế quý phi, thân mật nói.
Du Tú đỏ mặt bước tới.
Triều Vân dâng nước trà lên, Hoa Dương cười cười nói chuyện phiếm với nàng: “Bên đại tẩu dàn xếp thế nào rồi? Các tỳ nữ trong nha môn có nghe lời không?”
Có chuyện mình có thể nói khiến Du Tú bình tĩnh lại, đáp: “Bên cạnh ta vẫn còn Bích Đào, Bích Hà hầu hạ, những nha hoàn khác đều cho đi làm việc nặng, bây giờ vẫn còn an phận.”
Hoa Dương gật đầu: “Vậy đại ca thì sao, ở nha môn có bận lắm không?”
Du Tú thở dài: “Việc cần làm rất nhiều, hôm qua trời tối rồi mới thấy chàng về.”
Làm quan vừa nhậm chức, Trần Kính Tông không có quá nhiều chuyện phải làm ở Vệ Sở, Trần Bá Tông quản lý sự vụ của cả một phủ, chắc chắn sẽ bận rộn hơn. Chỉ có điều Trần Bá Tông đã làm việc ở Đại Lý tự sáu bảy năm, kinh nghiệm làm quan cũng coi như phong phú, là người khiến người khác bớt lo nhất trong số ba huynh đệ của Trần gia.
Hoa Dương lại hỏi Du Tú: “Ngoại trừ Tương Vương phi, đại tẩu có biết hai vị khách nhân khác hôm nay ta cần chiêu đãi có lai lịch gì không?”
Du Tú cười nói: “Ta vốn không rõ lắm, đưa thiệp mời cho trượng phu xem xong, chàng có nói với ta một chút, sau đó ta đã biết Bạch gia là danh gia vọng tộc ở đây, Lăng Nguyên Huyện quân dù mới ngoài ba mươi tuổi nhưng lại có vai vế cao, hình như Tương Vương gia cũng phải gọi nàng ấy một tiếng tổ cô.”
Tổ cô này là ý chỉ tỷ muội của tổ phụ, vị tổ phụ này có thể là thân tổ phụ, cũng có thể là đường tổ phụ của một chi khác, tổ cô cũng bao gồm cả đường tỷ muội.
Ở triều đại này, hoàng thân quốc thích rải rác khắp nơi, giống như Hoa Dương gọi Tương Vương là thúc phụ nhưng thực ra quan hệ máu mủ giữa hai người rất nhạt. Lăng Nguyên Huyện quân và Tương Vương cũng giống như thế.
Bây giờ vẫn còn sớm, Hoa Dương bèn mời Du Tú đi dạo trong viện.
Trong lúc đó, Tương Vương phi, Lăng Nguyên huyện quân và Kỷ lão phu nhân Bạch gia cũng lục tục mang theo lễ vật tới.
Bọn họ hành lễ gặp mặt nhau xong, Hoa Dương ngồi một mình ở vị trí chủ vị, Tương Vương phi, Lăng Nguyên Huyện quân ngồi phía bên trái nàng, Du Tú và Kỷ lão phu nhân ngồi bên phải.
Sau khi trải qua một canh giờ ở cạnh Hoa Dương, lúc Du Tú nhìn thấy Tương Vương phi khí thế không bằng Hoa Dương cũng không còn cảm thấy lo sợ gì nữa.
Hoa Dương không cần lo lắng cho nàng, nên mọi sự chú ý đều dồn về phía Tương Vương phi và Lăng Nguyên Huyện quân.
Hai người này, một là thê tử của Tương Vương, một người là nữ nhân đời trước bị Tương Vương hại chết thê thảm.
Tương Vương phi bốn mươi sáu bốn mươi bảy tuổi, tuổi tác tương đương với mẹ chồng Tôn thị. Chỉ có điều thân hình Tôn thị mượt mà, gương mặt phúc hậu hòa ái dễ gần. Còn gương mặt Tương Vương phi lại rất gầy, nét mặt cũng toát ra vẻ lạnh lùng, gương mặt như vậy trái lại khiến Hoa Dương càng trông có vẻ tươi tắn hơn rất nhiều.
Lăng Nguyên Huyện chúa trẻ hơn Tương Vương phi mười tuổi.
Nàng ấy không có diện mạo vô cùng xinh đẹp, chí ít cũng không phải là dạng vừa nhìn một cái đã khiến người ta giật mình. Chỉ là cuộc sống thủ tiết nhiều năm khiến vẻ u buồn nhợt nhạt tích tụ lại trên gương mặt của nàng ấy, thỉnh thoảng cúi đầu cụp mắt nhìn xuống trông nàng ấy như một đóa ngọc lan trắng như tuyết sắp bị nước mưa tạt cho rụng khỏi cuống, khiến người khác nhìn thấy thương tiếc.
Chính vì yếu đuối như vậy mới treo cổ tự sát khi bị Tương Vương làm nhục.
Nghĩ đến kết quả bi thảm của Lăng Nguyên Huyện quân, cái nhìn của Hoa Dương đối với Tương Vương phi lại càng tệ hơn.
Quả thật Tương Vương phi mới là đầu sỏ gây ra chuyện đó, nhưng Tương Vương phi cũng là tòng phạm trợ giúp. Nếu như bà ta không đứng ra mời Lăng Nguyên Huyện quân, thì một người đã là quả phụ không mấy khi bước chân ra khỏi cửa như Lăng Nguyên Huyện quân sẽ mạo muội đến viếng thăm một người họ hàng xa như vậy? Nếu là Tương Vương phi mời, tại sao bà ta lại để Lăng Nguyên Huyện quân bị lạc khỏi mọi người? Hiển nhiên là Tương Vương đã đánh tiếng với bà ta từ trước, hai vợ chồng hợp tác dụ Lăng Nguyên Huyện quân vào bẫy.
Trong lòng không thích, nhưng trên mặt Hoa Dương không thể hiện ra bất cứ thái độ gì, giống như một Công chúa được nuông chiều từ Kinh thành tới, ôn hòa đón tiếp hai vị bà con xa đến chơi.
Kỷ lão phu nhân cáo từ đầu tiên.
Hoa Dương cũng không giữ bà ta lại, chỉ mời thân tẩu tử và Tương Vương phi cùng với Lăng Nguyên Huyện quân ở lại Ninh Viện dùng bữa trưa.
Sau khi ăn xong Lăng Nguyên Huyện quân cũng cáo từ, Tương Vương phi ở lại uống trà.
Hoa Dương nhìn ra ý đồ của bà ta, nói với Du Tú: “Đại tẩu cũng mệt nhọc rồi đúng không, tẩu đến khách phòng nghỉ ngơi trước đi, ta và Vương phi đây nói chuyện một lát.”
Du Tú hiểu chuyện, rời đi cùng với Triều Vân.
Nàng vừa đi, Tương Vương phi đã cười nói với Hoa Dương: “Công chúa đi đường xa đến đây, ta và Vương gia chuẩn bị riêng hai món lễ vật nhỏ tặng Công chúa, bày tỏ tấm lòng.”
Hoa Dương cười nói: “Ngài và Vương thúc khách sáo quá.”
Lúc trước nàng luôn miệng gọi hai vợ chồng họ là “Vương gia”, “Vương phi”, bây giờ gọi như thế này nghe có vẻ như vì có lễ vật nên sửa lại cách gọi.
Tương Vương phi nghĩ, Công chúa mỹ nhân này đúng là một người tham tiền.
Có ai mà ngại nhiều tiền chứ, Hoàng đế còn tham tài, huống gì một Công chúa.
Tương Vương phi cảm thấy chắc chắn, nha hoàn chờ ở cạnh xe ngựa mang lễ vật tới, Tương Vương phi tự mình giới thiệu cho Hoa Dương: “Đây là “Tranh trúc cầm” do Huy Tông của tiền triều vẽ nên, lão Vương gia tình cờ có được, Vương gia nói ngài ấy là người thường, không biết thưởng thức tranh chữ. Món này nếu cứ để lại ở Vương phủ cũng phí phạm, nghe nói Công chúa thích tranh vẽ, không bằng đưa cho Công chúa đánh giá.”
Trong lúc Tương Vương phi đang nói về “Tranh trúc cầm”, Hoa Dương nhẹ nhàng hít vào một hơi khó phát hiện.
Tương Vương phi chỉ coi như không nghe thấy gì, chờ đến khi Hoa Dương nhìn hết một khắc đồng hồ mới gian nan thu hồi lại ánh nhìn, Tương Vương phi mới đưa ra phần lễ vật thứ hai.
Cái tráp này chia ra làm hai tầng, tầng trên là đế gỗ đàn hương đỏ sang trọng, tầng dưới là pho tượng Quan Âm đứng làm từ dương chi bạch ngọc.
Đối với Hoa Dương mà nói, khối dương chi bạch ngọc lớn như thế không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ là bức tượng Quan Âm này được chạm trổ rất tinh xảo, đường cong từ trên xuống dưới mượt mà trông rất sống động, khiến người nhìn không nỡ đụng vào.
Hai món lễ vật này, cái nào cũng là báu vật hiếm có, để trong quốc khố hoàng gia cũng có thể giữ một vị trí nhỏ.
Hoa Dương thưởng thức xong, nhìn Tương Vương phi với ánh mắt sâu xa, nói: “Vương thúc hào phóng như vậy, nếu không có mong muốn gì, ta cũng không dám nhận.”
Tương Vương phi cười xòa: “Nếu như Công chúa đã nói như thế thì ta cũng không giấu diếm nữa. Không giấu gì Công chúa, đúng là Vương gia gặp phải chút phiền phức.”
Sau đó bà ta khéo léo nhắc đến việc trước khi mùa mưa năm nay đến, Tương Vương cần phải xây đắp lại một tòa viện, cho nên mới điều một ít binh lính Vệ Sở đi làm.
“Chỉ cần dùng bọn họ trong vòng bốn tháng mà thôi, xin Công chúa hãy nói một tiếng với Phò mã, để Phò mã dàn xếp một chút…”
Vẻ mặt Hoa Dương ung dung, cười nói: “Chuyện này đơn giản, đêm nay hắn về ta sẽ mắng hắn một trận. Hắn cũng đần lắm, tuy nói rằng quan mới nhậm chức phải sáng như ba cây đuốc, nhưng hắn cũng không thể mang đuốc ra đốt cả người hoàng thân quốc thích chúng ta được.”
Tương Vương phi âm thầm thở dài nhẹ nhõm một hơi, chỉ sợ bản thân vô tích sự không làm được việc, lúc về Vương gia sẽ trút giận lên người bà ta.
Chuyện đã được giải quyết xong, Tương Vương phi không ở lại nữa.
Xe ngựa rời khỏi cổng lớn Ninh Viện, vòng qua mấy con phố, cuối cùng dừng lại trước cửa Tương Vương phủ.
Nửa ngày hôm nay Tương Vương chỉ nghĩ đến chuyện tặng quà này.
Phần lễ vật này của ông ta có giá trị vượt xa đám binh sĩ Vệ Sở chỉ có thể bán sức lao động, thậm chí còn đủ mua thêm vài tòa sân viện nữa.
Tương Vương quyết định bỏ những thứ yêu thích là vì muốn hoàn toàn mua chuộc vị Công chúa đến từ Kinh thành kia, để cho nàng ta có nghe được những chuyện gì không hợp quy củ thì cũng đừng tới tìm ông ta.
Quan viên địa phương sợ hãi ông ta, không dám đi vạch trần tội ác của ông ta với triều đình, cho dù có bị vạch trần thì Cảnh Thuận đế có lẽ cũng sẽ nể mặt ông ta vài phần vì là hoàng thân quốc thích mà nhẹ nhàng buông tha, nhưng nếu Hoa Dương một hai phải đối nghịch với ông ta thì cũng phiền phức.
“Thế nào, Công chúa nhận không?”
Vợ chồng vừa chạm mặt, Tương Vương đã vội vàng hỏi.
Tương Vương phi cười nói: “Nhận, Vương gia thật là có mắt nhìn, Công chúa nhìn Quan Thế Âm không có vẻ gì là ngạc nhiên, nhưng thấy “tranh trúc cầm” lại phải hít sâu.”
Tương Vương đắc ý cười, ông ta biết “tranh trúc cầm” quý giá, nhưng ông ta không thích mấy thứ nho nhã đó, nên không ngại gì tặng bức tranh vô dụng đó đi.
“Công chúa còn nói, đêm nay nàng ta sẽ mắng Phò mã một trận, không cho phép hắn nhúng tay vào chuyện binh lính bên kia nữa.”
Tương Vương suy nghĩ về chữ “mắng” này, tâm trạng cũng tốt hơn. Ông ta chỉ biết, cách vị Công chúa được nhận hết sủng ái đối xử Phò mã không khác gì cách ông ta đối xử với vị Vương phi này của mình, căn bản đều chỉ là món đồ chơi mà thôi. Lúc nào tâm trạng tốt thì trêu chọc mấy câu, tâm trạng không tốt thì muốn đánh là đánh, muốn mắng cứ mắng.
Ánh mắt khinh miệt của ông ta đảo qua gương mặt không còn xinh đẹp từ lâu của Vương phi, Tương Vương ngồi xuống cái ghế bên cạnh, hỏi một chuyện khác: “Diện mạo Công chúa thế nào, có kiêu sa tuyệt trần như lời đồn không?”
Tương Vương phi cụp mắt, thật thà gật đầu.
Tương Vương ước mơ trong chốc lát nhưng rồi lập tức tiếc rẻ mà thở dài. Cho dù lá gan ông ta có lớn hơn nữa cũng không dám với tay tới chỗ Hoa Dương, trừ phi Hoa Dương phong lưu coi trọng ông ta trước.
*áo bối tử: bối tử 褙子 (thời Tống), phi phong (thời Minh), và nhật bình (thời Nguyễn), là một dạng áo Đối khâm. Mỗi thời đại, kiểu dáng sẽ thay đổi đôi chút.
*bổ tử: miếng vải vuông thêu hoa văn ở giữa hai vạt áo quan phục thời xưa.