Mục lục
[Dịch] Linh Phi Kinh - Sưu Tầm
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Dịch giả: Alex dịch

Hoa nở hoa tàn, mây tụ mây tan, Tống Liêu Kim Nguyên, thoáng cái vụt qua hết cả, muôn dân sinh tử, mấy trăm năm tuế nguyệt chuyển vần, chỉ chớp mắt đã tới năm Hồng Võ thứ hai mươi bảy nhà Minh.
Trận chiến Thừa Hoàng quán thuở nào giờ là cát bụi, thiên hạ đã đổi chủ, riêng dòng chảy Trường Giang thì vẫn như xưa, ba đào cuồn cuộn nối vào sông Tần Hoài, uốn lượn vòng qua chân kinh thành, dòng nước lặng như không chảy, trông tựa khối phỉ thúy xanh chai.
Đột nhiên, mé sông chợt vọng lên tiếng ca ai oán.
“Lục ti đê phất uyên ương phố, tưởng đào diệp đương thì hoán độ, hựu tương sầu nhãn dữ xuân phong. Đãi khứ, ỷ lan, cánh thiểu trú.
Kim lăng lộ, ca yến vũ. Toán triều thủy tri nhân tối khổ, mãn đinh phương thảo bất thành quy. Nhật mộ, cánh di chu, hướng thậm xứ?”
Cặp hát rong gồm một già một trẻ. Lão giả xướng khúc tuổi cỡ lục tuần, vóc người khô kiệt. Thiếu niên xuy địch chưa quá mười lăm, mũi thẳng mắt trong, da sáng như ngọc, mi dài đen nhánh chơm chớp tươi xinh, trông tinh nhanh khóe mắt hữu tình.
Leng keng! Vài trinh lẻ rơi xuống khay đồng, mấy đại hán bộ dạng nhàn tản cười hi hi ha ha, lục tục rời đi. Lão giả nhặt tiền, lúi húi đếm rồi lắc đầu, dõi mắt ra trời xa thờ thẫn, thiếu niên buông địch xuống, lấy làm lạ:
– Cha ơi, cha nhìn gì vậy?
Lão giả trầm ngâm không đáp, thiếu niên nhìn theo hướng mắt lão. Cuối trời tây nổi rõ một vầng mây dài đỏ rực pha tía, hệt như cục máu bầm nằm giữa ngọn lửa, gã chột dạ, khẽ nói:
– Mây sao thế nhỉ? Màu sắc đến là quái lạ!
– Trời còn đang phát sốt! – Lão giả thở dài đứng dậy – Hôm nay giải tán thôi!
– Mới mấy đồng tiền, – thiếu niên chau mày – không đủ bữa cơm.
– Ta mệt rồi, về nhà nghỉ đây, – lão giả khàn giọng nói rồi quay lưng đi – Mấy trinh đó con giữ lấy.
Thiếu niên nhận tiền, đưa mắt trông theo cho đến khi lão giả đi khuất thì vui vẻ reo khẽ, đảo mắt nhìn ngó quanh quất. Chợt nghe có người gọi, “Lạc Chi Dương!” Góc tường nhảy ra một thiếu niên, mày ríu cằm nhọn, đôi mắt láo liên, vừa xuất hiện liền càm ràm:
– Lạc Chi Dương, ta đợi ngươi già nửa ngày trời, nghe ngươi cứ thổi u u mãi không thôi, phát sốt cả ruột.
Lạc Chi Dương cười nói:
– Giang Tiểu Lưu, sốt ruột cái gì? Trời còn chưa tối mà. Đêm nay sao đây, đến miếu Phu Tử xem hát hay đến lầu Huyền Hà nghe kể chuyện?
Giang Tiểu Lâu ho hắng, rồi nói:
– Tối nay có vở Đơn đao hội, đại đao của Quan lão gia múa vun vút!
Lạc Chi Dương tung tung mấy đồng trinh trong tay:
– Xem hát thì không đủ tiền, thôi cứ nghe kể chuyện đi.
– Mẹ ngươi chứ! – Giang Tiểu Lưu hai tay chống nạnh, toét miệng cười – Ai bảo xem hát cần tiêu tiền? Ngươi hỏi dân ven sông, xem có kẻ nào dám thu tiền của Giang gia này không?
– Thật ư? – Lạc Chi Dương vươn đầu ngó quanh, chợt kêu lên – Giang gia, má ngươi đến kìa!
Giang Tiểu Lưu nghe vậy phát run, cắm đầu co giò bỏ chạy, chạy được mấy bước nghe Lạc Chi Dương cười ha hả, lập tức hiểu ra, bèn quay phắt lại chửi bới:
– Lạc Chi Dương, đồ chó lừa đảo!
– Lừa ngươi làm chi? – Lạc Chi Dương cười nói – Má ngươi vừa mới ở đây, sao nháy mắt đã bốc hơi rồi? Ây dà, gay rồi, chưa chừng lại nhảy xuống sông đấy. Giang Tiểu Lưu, ngươi mau nhảy theo, kẻo bá mẫu bị đổi tên thành Vương Bát Đà bây giờ.
Cha Giang Tiểu Lưu làm chân chạy vặt cho một thanh lâu bên bờ sông, đứng ở bậc đáy trong hạ cửu lưu, đại hiệu Quy Công, tiểu danh Vương Bát, vì thế mà nghe câu nói này Giang Tiểu Lưu nhe nanh giơ vuốt nhảy bổ vào, nhưng Lạc Chi Dương thân thủ linh hoạt, lắc mình tránh khỏi, lại khèo chân móc, tiện tay xô một phát, Giang Tiểu Lưu liền mất đà chúi người đi như cái băng pháo, húc đầu vào tường, tức thì đầu váng mắt hoa. Vừa định quay phắt lại thì thấy da đầu đau tê, chỏm tóc đã bị Lạc Chi Dương túm lấy. Gã trở tay định đánh, nhưng Lạc Chi Dương cũng nhẹ nhàng lách qua, rồi rút cây trúc địch bên hông, quất bôm bốp vào mông gã.
Giang Tiểu Lưu không biết trốn vào đâu được, đau quá cứ nhảy chồm chồm:
– Ối da, đừng dứt tóc ta, ối da, nhẹ tay xíu, đừng đánh mạnh nữa…
Lạc Chi Dương quất thêm cho mấy nhát nữa mới buông gã ra. Giang Tiểu Lưu tay trái xoa đầu, tay phải xoa mông, lòng nửa giận nửa sợ, bèn la ông ổng:
– Lạc Chi Dương, cha ngươi cũng là cái loại xướng ca thối tha, đều thuộc hạ cửu lưu cả, sạch nước cản hơn ai!
Lạc Chi Dương lắc đầu nói:
– Ta không có cha!
Giang Tiểu Lưu phát cáu:
– Định lừa con mẹ ngươi à? Lạc lão đầu không phải cha ngươi, lẽ nào là con ngươi?
Lạc Chi Dương thản nhiên nói:
– Ông ấy là nghĩa phụ ta, ta là do ông ấy lượm về!
Giang Tiểu Lưu ngẩn người. Hai đứa đánh bạn với nhau bấy lâu mà đến bây giờ gã mới biết chuyện này. Gã nhìn Lạc Chi Dương, lòng nghĩ mình xuất thân hèn kém, nhưng dẫu sao còn có tía có má, thế mà cái tên ranh ma này lại là cô nhi, thật sự khiến người ta không tưởng được.
Bấy giờ là lúc mặt trời xuống núi, sông Tần Hoài rộn rã hẳn lên. Một lá thuyền con rẽ làn sương mỏng lướt qua bên hai người. Đầu thuyền mảnh khảnh một văn sĩ vận bạch y, mặt như ngọc dát, râu tóc đen nhánh, hông giắt ngọc bội phỉ thúy khảm một viên minh châu to cỡ trứng chim câu.
– Khá thật! – Giang Tiểu Lưu vốn sành sỏi, nói ngay – Miếng ngọc bội này là đủ mua đứt một nửa Quần Phương viên đấy…
Chưa dứt lời, chợt thấy bạch y văn sĩ quay ngoắt lại, mắt rực như chớp nhìn xoáy vào mặt mình. Giang Tiểu Lưu nghe da mặt tê bì, châu thân ớn lạnh, văn sĩ lại quay đi, tựa đang thưởng ngoạn phong cảnh hai bên bờ.
Giang Tiểu Lưu hoàn hồn lẩm bẩm:
– Tên đồ nho này, trừng mắt nhìn ta làm gì chứ?
Lạc Chi Dương cười nói:
– Hắn muốn đưa tình với ngươi.
– Phì! – Giang Tiểu Lưu nhổ ra – Thiếu gia ta đâu phải phường đồng tính ái.
Lạc Chi Dương cười bảo:
– Ngươi có tám bàn tay, so với Na Tra tám cánh tay ở Nguyên Dương quán thì cũng chả kém.
Giang Tiểu Lưu nghe gã ví mình với Na Tra, thoạt tiên hí hửng, thoắt lại nổi khùng:
– Lạc Chi Dương, con bà ngươi mới là tám bàn tay, chính ngươi mới là con cua.
Đến Phu Tử miếu thì trời đã tối lắm, lờ mờ trăng ló non Đông, cong như lá liễu. Phường hát đèn giăng hoa kết, giọng một lão già văng vẳng đằng xa, í í a a, tang thương khôn tả:
– Đại giang dồi sóng chảy về Đông, dẫn mấy chục người, vịn Tây phong, cưỡi chiếc thuyền lá mỏng…
Đám đông lũ lượt chen vào cửa phường hát, ai nấy y phục lộng lẫy. Hai gã lạc loài đâm thẹn, không đi đường chính mà luồn qua Ô Y hạng, vòng tới ngõ nhỏ đằng sau phường hát, trong ngõ có một thân đại thụ lâu đời, tán như cái lọng, chắc đã từng được che cho Tạ An nghỉ chân hóng mát, từng được nhòm lom lom xuống chiếu bạc của Lưu Kí Nô.
Hai gã thoăn thoắt leo lên cây, ngồi ở chạc ba, trông vào sân khấu rõ mồn một.
Nhìn những đầu người đen nhức dưới sân, Giang Tiểu Lưu khoái chí chưởi khẽ:
– Lũ cẩu trệ này, tưởng có tiền xem kịch là ghê lắm à? Hứ, ta xả một vòi nước đái xuống dìm chết hết chúng mày bây giờ.
Lạc Chi Dương bật cười:
– Giang Tiểu Lưu thủy yểm thất quân. Hay đấy!
– Không dám! – Giang Tiểu Lưu điệu bộ phẩy tay – Thủy yểm thất quân là của Quan lão gia, ài, ta vẫn kém lão gia một bậc.
Lạc Chi Dương cười, đưa mắt nhìn xuống phường hát. Trên sân khấu lúc này là Quan Công mặt đỏ râu dài, trường đao múa vun vút như lưu quang cổn tuyết, bộ râu của phó tướng Chu Thương đứng bên cũng bị đao phong quạt bay tung lên, càng xem càng đặc sắc, đám đông bên dưới rộ lên khen ngợi.
Giang Tiểu Lưu mặt mày hơn hớn, huých Lạc Chi Dương bảo khẽ:
– Ta đoán thanh đao kia bằng giấy bồi, chứ đao thật của Quan lão gia nặng tám mươi mốt cân, phàm nhân nào vũ động cho nổi?
Lạc Chi Dương nói:
– Đao thật đao giả, cho người ta chém thử một nhát chả phải sẽ biết hay sao?
Giang Tiểu Lưu phát cáu:
– Nếu là đao thật, tiểu gia ta đi đời nhà ma còn gì?
– Cũng chưa chắc – Lạc Chi Dương thủng thẳng nói – Trên người ngươi có một chỗ, cho dù đao thật cũng bất lực mà thôi.
– Nơi nào? – Giang Tiểu Lưu ngạc nhiên.
Lạc Chi Dương cười đáp:
– Da mặt đó, bản mặt ngươi vừa dày vừa trơ, bảo đao nào chém cho nổi.
Giang Tiểu Lưu nổi khùng, đang tính chửi lại, chợt nghe “keng” một tiếng hơi chói tai. Liền đó, Quan Công trên đài cước bộ rối loạn, Quan đao trong tay phóng chếch sang trái, suýt chút nữa chém trúng Chu Thương đằng sau. Cả rạp nhớn nhác, hoang mang thụt lui mấy bước.
Giang Tiểu Lưu “ồ” một tiếng, thắc mắc:
– Quái nhỉ, Quan Công chém Chu Thương à, đâu ra cảnh này?
Lạc Chi Dương nói liền:
– Thế đã là gì? Ta còn thấy Trương Phi mượn đông phong nữa kia.
Giang Tiểu Lưu lườm gã, hừ mũi:
– Vậy ngươi đã xem hổ đả Võ Tòng chưa?
– Chưa – Lạc Chi Dương lắc đầu – Nhưng Trần Thế Mỹ trảm Bao Công thì ta có xem.
– Con bà ngươi – Giang Tiểu Lưu nổi khùng – Ta là Giang Tiểu Lưu, còn ngươi là Lạc Đại Ngưu, đại trong đại thoại, ngưu trong xuy ngưu…
(Alex chú: Đại thoại, Xuy ngưu đều có nghĩa là khoác lác)
Đang tranh cãi, chợt nghe “keng keng” lần nữa, đao quang xoáy đảo, táp tới, vòi máu phụt ra, Chu Thương không còn đầu nữa, cái xác cụt đầu đứng sững tích tắc, rồi đổ rầm tới trước.
Phường hát lặng phắc như tờ, đám đông trố mắt, mọi tiếng hò reo tắc nghẽn nơi cổ. Giang Tiểu Lưu vỗ đùi:
– Quỷ thần ơi, đao thì là giấy bồi, người cũng là giấy bồi luôn ư? Mê quá, mê quá, tích Đơn đao hội lão tử xem đã mấy lần, mà cảnh chém đầu này lại mới là lần đầu trông thấy.
Lạc Chi Dương cau rúm mày, lắc đầu:
– Không đúng, vòi máu tung tóe kia, y như thật ấy!
Còn chưa nói hết, lại nghe “keng” tiếng nữa, Quan đao vụt ngoặt phải, “rắc rắc”, chém đứt cái cột chống rạp.
Hồi 2, Kim Lăng ca vũ | Alex dịch] - Ối da! – Bên dưới rú lên, khách xem nhảy loi choi, xô nhau chạy túa ra viên môn, mới được vài bước, trên không bỗng anh ánh van vát tựa mưa tạt. Tức thì, mấy chục người dừng khựng lại, thân thể cứng đơ trong tư thế chạy, y hệt rối gỗ hay phỗng đất.
Giang Tiểu Lưu tuy thô mãng, nhưng cũng nhận ra có điều không ổn, hé miệng toan kêu, Lạc Chi Dương đã vội giơ tay bịt mồm gã. Quan đao trên đài vũ động càng nhanh, quang hoa lớp lớp hệt vầng trăng sáng, keng keng chói tai mãi không ngơi, tia lửa bắn tung tóe. Quan Công bước chân lảo đảo, gầm lên một tiếng, đột nhiên nhảy phắt ra sau, hoành đao trước người, đanh giọng:
– Ném ám khí đả thương người thì ra cái gì? Mau lộ diện, cùng gia gia phân tài cao hạ!
Giang Tiểu Lưu lấy làm lạ:
– Ngẫn à, trong kịch làm gì có lời thoại này.
Lạc Chi Dương khẽ mắng:
– Im đi, để người ta nghe thấy thì cái mồm này cũng chẳng còn đâu.
Giang Tiểu Lưu ngạc nhiên:
– Sao lại không còn mồm?
Lạc Chi Dương lạnh lùng:
– Đầu bay rồi, mồm còn sao được?
Lặng phắc một hồi, chợt nghe “ha” một tiếng, từ sau hòn giả sơn chầm chậm bước ra một người. Giang Tiểu Lưu suýt buột miệng kêu lên. Nguyên lai đây chính là bạch y văn sĩ đứng ở đầu thuyền hồi hôm, viên minh châu trên ngọc bội lấp lóe sáng trong bóng tối.
– Ngươi là ai? – Quan Công trừng trừng nhìn văn sĩ, mắt lộ vẻ nghi hoặc.
Bạch y văn sĩ mỉm cười:
– Triệu Thế Hùng, hai mươi tám năm cách mặt, ngươi không nhận ra ta nữa ư?
Quan Công đảo mắt, chợt há hốc miệng:
– Ngươi, ngươi…
– Ta cái gì? – Văn sĩ cười – Ta có phải là rất giống một người?
Triệu Thế Hùng toàn thân lẩy bẩy, run giọng trỏ văn sĩ:
– Ngươi, ngươi…
Văn sĩ cười nói:
– Nhớ ra chưa? Ngô vương Trương Sĩ Thành, có phải là rất giống ta…
– Ngươi… – Triệu Thế Hùng giật lui, nuốt nước bọt đánh ực, cuối cùng cũng thở lại được – Trương Thiên Ý, ngươi đã chết rồi cơ mà.
– Phải đấy, ta cũng lấy làm lạ kìa! – Văn sĩ cười rùng rợn – Hỏa hoạn Tề Văn lâu không thiêu chết ta, nước sông Bình Giang cũng không dìm chết ta, bấy giờ ta còn nghĩ, người nhà thiệt mạng cả rồi, ta sống làm chi nữa? Nhưng mà sống, là thiên ý, ông trời muốn ta làm chút chuyện. Triệu Thế Hùng a Triệu Thế Hùng, ta lùng sục ngươi đã bao năm, ta những tưởng, năm ấy ngươi bán đứng cha ta, lại chặt đầu anh ta, thì sớm đã cất cánh bay cao, không được phong hầu bái tướng cũng áo lượt quần là, phú quý vinh hoa. Ai ngờ từ bận đó ngươi lại bặt tăm. Thoạt tiên ta gắng truy tìm nơi thâm sơn đại trạch, nhưng đều hoài công vô ích. Ta bèn nghĩ, tiểu ẩn vu dã, đại ẩn vu thị, Triệu Thế Hùng ngươi người cũng như tên, là nhất thế gian hùng, chưa chừng lại nghĩ khác, sẽ chọn đại ẩn vu thị, bởi vậy ta chuyển hướng sang danh đô quận huyện, tìm tới tìm lui, chẳng ngờ ngươi to gan bằng trời, lại diễn tuồng ngay dưới mũi Chu Nguyên Chương, càng nực cười hơn nữa là, ngươi còn dám thủ vai Quan lão gia. Quan Vân Trường trung nghĩa toàn vẹn, còn ngươi, ngươi là hạng gì?
Triệu Thế Hùng trầm ngâm:
– Ta không giết anh ngươi! Cái chết của Ngô vương cũng không liên quan đến ta, ông ấy treo cổ tự tận.
– Ngươi sợ rồi ư? Triệu Thế Hùng? – Trương Thiên Ý cười, cơ mặt giần giật, trông còn khó coi hơn là khóc – Ta đã hỏi binh sĩ thủ thành Bình Giang. Tất cả chúng khẩu đồng từ, Tây môn là do ngươi mở. Ta cũng hỏi đám tì nữ may mắn sống sót trong vương phủ, khi thành bị phá kẻ đầu tiên lao vào nhà ta chính là ngươi. Còn về Ngũ ca ta, hà, lúc ngươi giết anh ấy, ta nấp trong cái vại gần đó, tuy không trông thấy mặt, nhưng nghe giọng mồn một, ngươi đòi giao thứ gì đó, anh ấy không đưa, ngươi bèn hoành đao chém luôn. Khà, tiếng rú thảm thiết của Ngũ ca, ta còn nhớ rõ, hai mươi tám năm nay, mỗi đêm nằm mộng, âm thanh ấy vẫn văng vẳng trong tai…
Mặt y nhăn nhúm hẳn đi:
– Ta còn nhớ, ngươi chém anh ấy tổng cộng hai mươi mốt đao…
Triệu Thế Hùng đứng trên đài, bộ mặt vàng xạm cứng đờ, một lúc sau mới cười khè khè:
– Nói như thế là, định chém trả hai mươi mốt đao?
– Không! – Trương Thiên Ý rung tay, chưởng tâm lập lòe bích quang – Ta dùng kiếm.
Triệu Thế Hùng cười khẩy:
– Kim châm của ngươi cũng rất lợi hại.
Trương Thiên Ý cười nhắc:
– Dạ vũ thần châm!
– Dạ vũ thần châm? – Triệu Thế Hùng rùng mình, giọng run lên – Ngươi, ngươi là đệ tử Đông Đảo?
Trương Thiên Ý cười nói:
– Ngươi chớ quên, cha ta xuất thân Đông Đảo, ta vô năng, dựa vào bóng cả của cha nên cũng được thu nạp làm thành viên Đông Đảo. Nhưng đừng sợ, ta không dùng thần châm bắn ngươi đâu. Ngươi giết Ngũ ca bằng hai mươi mốt nhát đao, ta sẽ đâm ngươi hai mươi mốt nhát kiếm thôi. Dù ngươi may mắn sống sót, nợ nần giữa hai chúng ta cũng coi như thanh toán xong.
Quan đao chững lại, Triệu Thế Hùng bỗng phá ra cười ha hả. Trương Thiên Ý nhìn lão, mắt lạnh băng như mắt rắn. Triệu Thế Hùng cười một hồi, đôi mày xếch bỗng nhướng lên, giọng đanh lại:
– Trương Thiên Ý, ta tuy già rồi, nhưng đao chưa già!
– Không dám! – Trương Thiên Ý nhẹ nhàng vuốt qua mũi kiếm, hàn khí thấm vào ngón tay – Khoái Tai Đao Triệu Thế Hùng, năm xưa tung hoành Tam Ngô, đao hạ chưa từng gặp địch thủ. Trận Bình Giang, một người một đao phá trận, gần như đã đốn hạ Khai Bình vương Thường Ngộ Xuân, khiến Hoài Tây Thập Bát Thiết Kỵ của lão khi kết chiến chỉ còn sót ba người. Ta trước sau cứ nghĩ, có phải vì chuyện này mà ngươi không tìm thấy chỗ dung thân ở Đại Minh? Sau phân tích, ngờ rằng không đúng. Bấy giờ Chu Nguyên Chương chưa lấy được thiên hạ, nhất định phải mua chuộc nhân tâm, nhi tử của Trần Hữu Lượng mà lão còn không giết, đời nào trách tội một hổ tướng như ngươi? Ngươi mai danh ẩn tích, e rằng còn có ẩn tình…
– Bớt rườm lời đi! – Triệu Thế Hùng thét lên – Triệu mỗ bất tài, muốn lĩnh giáo tuyệt học Đông Đảo.
– Hay lắm! – Trương Thiên Ý cầm chếch trường kiếm, chậm rãi bước lên đài.
Hai gã trên cây lưng đều ướt đẫm, không dám cả thở mạnh. Ở đây cách võ đài rất xa, Trương, Triệu tuy công lực thâm hậu, nhưng cũng không phát giác là còn có người. Lạc Chi Dương gắng kiểm soát nhịp tim, đảo mắt nhìn ra, bên ngoài hí viện đăng hỏa tưng bừng, thanh âm nhộn nhạo, trên mặt sông đằng xa, bảng lảng tiếng ca du dương trong trẻo.
Một trận gió mạnh tạt tới, thiết mã dưới hiên hí vang. Lạc Chi Dương ngoảnh mặt nhìn lại, võ đài rộng lớn là thế, đã chìm lỉm trong đao quang lồng lộng.
Quan đao của Triệu Thế Hùng thuộc loại tốt, năm xưa lão từng nhờ vào thanh đao này mà xung phong hãm trận, trảm tướng đoạt kỳ, cho dù lưu lạc kịch xướng, cũng chưa từng thả tay buông bỏ. Cương đao tám mươi mốt cân mà lão sử nhẹ bỗng, quang mang trắng lóa như tuyết bay lúc tháng Chạp trọng đông, không chỉ nhanh, mà còn chuẩn, còn độc. Tương truyền năm xưa, thanh đao này hớt được cả ruồi đậu trên đầu người mà không làm rụng lấy một cọng tóc. Triệu Thế Hùng tuổi đã cao, tốc độ có phần giảm sút so với thuở nào, nhưng độ chuẩn độc thì lại tăng một bậc, thế như sấm rung chớp giật, phóng qua lướt lại vù vù.
Trương Thiên Ý sử nhuyễn kiếm dài ba thước, thanh quang lóng lánh, mỏng tựa cánh ve. Thân pháp y nhanh đến ly kì, hễ chuyển động là nhòa như sương khói, giữa mịt mù lại thấp thoáng thanh mang, thoắt ẩn thoắt hiện, hệt như lá thuyền con, dập dồi lên xuống trong đao quang cuồn cuộn tựa ba đào.
Khoái Tai Đao tổng cộng có bảy mươi hai lộ, Triệu Thế Hùng hiểu rằng đối phương lợi hại, vì thế thủ bảy công ba, chuyển thức khéo léo kín kẽ, dùng nhanh đánh nhanh, bảy mươi hai lộ đao pháp chỉ chớp mắt đã sử hết, nhưng đến cái bóng của Trương Thiên Ý cũng không chạm được vào. Đối phương di chuyển phiêu hốt, chẳng giống người nữa, mà tựa quỷ hồn. Triệu Thế Hùng thấy lòng lạnh toát, mồ hôi rịn ướt chân tóc, cảm giác tê dại ngâm ngẩm dồn lên dọc hai cánh tay. Lộ đao pháp này tên là Khoái Tai, một là nhanh, hai là mạnh, phải gồng mình vận khí, dùng uy thế hoành tảo thiên quân áp chế đối phương, nếu đánh lâu vô ích thì khí thế suy giảm, khó tránh khỏi kiệt sức. Triệu Thế Hùng bẩm sinh thần lực, sử Quan đao vốn chỉ như vê hạt cải, mà đến lúc này cũng cảm thấy đại đao trở nặng, điều khiển không còn thuận tay như trước nữa.
Đang nóng lòng, lại thấy thanh quang láy động, mũi kiếm xanh đã trực chỉ tới ngực. Triệu Thế Hùng cả kinh, vội thu Quan đao chắn lại, nhuyễn kiếm như khói như sương tản ra một mảng xanh xanh, rung lướt qua sống đao. Triệu Thế Hùng toan lùi về sau, chợt nghe Trương Thiên Ý hô một tiếng “Trúng”, liền đó ngực trái lạnh toát tựa gió nhẹ phẩy qua, lão choạng choạng giật lui, cúi mặt nhìn xuống, một nhát rạch dài kéo từ ngực trái cho đến đầu vai, máu đang tứa ra, từ từ nhuộm hồng lớp áo.
– Kiếm thứ nhất. Khai môn kiến hồng. Thật rực rỡ!
Trương Thiên Ý tủm tỉm nói. Triệu Thế Hùng nghe lòng lạnh toát đi, nhát kiếm này mà sâu thêm vài phân là lão mất mạng, nhưng Trương Thiên Ý ghìm giữ, chỉ rạch xuống không quá một phân.
Triệu Thế Hùng nhìn vết thương, lòng dâng niềm bi phẫn. Đối thủ trêu chọc như vậy, căn bản là coi lão như lợn dê chờ vào lò mổ, nghĩ đến đây bèn rống lên, đại đao vạch ra một vòng sáng, tiếng như sấm nổ, quét về phía Trương Thiên Ý.
Hai gã trên cây dại mắt ra mà nhìn, chỉ thấy bất kỳ kịch văn nào cũng không có cảnh chém giết li kỳ hung hiểm như vậy. Lạc Chi Dương như thể trúng phép định thân, tay chân cứng đơ, không tài nào động đậy được, miệng thì vừa đắng vừa chua, lùng bùng trong tai là tiếng rao hàng đang vang khắp phố. Ngước mắt lên nhìn, trên gờ cột cờ gần đó treo một đèn kéo quân rất to, trông như bánh xe quay, lấp loáng biến ảo. Mùi thơm của bánh quế hoa từ xa thoảng lại, lẫn cả mùi dầu hành của bánh nướng thịt dê. Lạc Chi Dương chợt cảm thấy đói ngấu, không kìm được nuốt nước miếng đánh ực. Bấy giờ, đằng xa vọng tới tiếng gõ cửa rầm rầm, bèn ngoái lại nhìn, mấy gã công tử phong lưu đứng ngay ngoài cổng hí viên, mồm gào thét mắng nhiếc, đấm đá thình thình vào cửa. Cánh cửa không rõ đã bị đóng lại tự bao giờ, gia đinh gác cửa cũng không thấy tăm hơi.
Chỉ cách một bức tường, bên ngoài là hồng trần sầm uất, bên trong là địa ngục sát băng. Đột nhiên, Trương Thiên Ý hô khẽ, “Trúng!” Liền đó là tiếng hự tắc nghẹn. Lạc Chi Dương lấy lại tập trung, chăm chú theo dõi. Triệu Thế Hùng đã bị rạch thêm một nhát ở đùi, máu me đầm đìa, da thịt bửa cả ra, trông như cái mồm há ngoác, cơ thịt vẫn còn co giật. Giang Tiểu Lưu trông mà ngạt thở, phách lạc hồn xiêu.
– Kiếm thứ hai! – Trương Thiên Ý cười mát mẻ, áo trắng hơn tuyết, kiếm ảnh xanh mờ trong tay tựa như đom đóm đêm hè, nuốt chửng đao quang trắng lạnh. Triệu Thế Hùng cứ thế giật lui. Trong đợt kích chiến này, hai vết thương máu chảy ào ào, hễ lão vặn mình xuất đao, là máu lại hắt tung ra, đáp xuống nổi bật trên tấm áo trắng của Trương Thiên Ý, trông như hoa đào tháng Ba.
Triệu Thế Hùng bị thương nặng ở chân, thân pháp chậm dần, lưỡi đao móc trên chặn dưới càng tỏ rõ sự đuối sức. Trương Thiên Ý xuất kiếm mỗi lúc một nhanh. Chỉ chớp mắt, lưng và hông Triệu Thế Hùng trúng hai nhát rạch.
Xoẹt! Triệu Thế Hùng lắc hờ một đao, trông tựa như chém đối thủ. Đúng lúc Trương Thiên Ý xoay mình tránh, lão bèn quét mạnh đao ra sau. Rắc, cột chống rạp lại gãy thêm một thanh, sàn diễn lắc lư muốn sập, xà cột bắt đầu kêu kẽo kẹt.
Trương Thiên Ý nhận ra chủ đích của lão, bèn phi thân lên, soạt soạt hai kiếm, liên tiếp đâm trúng ngực trái vài đùi phải Triệu Thế Hùng. Tức thì đao pháp rối loạn, đầu gối khuỵu xuống, Quan đao thõng xuống quét đất, Trương Thiên Ý tung mình nhảy ra, cười nói:
– Còn mười lăm kiếm nữa!
Tiếng chưa dứt, Quan đao đã vạch một vòng tròn, rắc, cột chống thứ ba bị chém gãy, sân khấu sập xuống, bụi đất mù trời. Tiếng đổ gãy vang xa mấy dặm, không chỉ khách xem ngoài cửa nghe thấy, mà cả người qua đường trên phố lớn đằng xa cũng xôn xao ngó lại.
Đột nhiên, giữa khói bụi vang lên một tràng rú dài thê thảm, một cái bóng lảo đảo lao ra, hai gã trên cây đều bất giác nín thở, chú mục nhìn xem, Triệu Thế Hùng đứng dưới đài, mũ không hiểu đã bay đâu mất, mái tóc dài xõa tung, một nhát kiếm chém từ bên đầu xuống đến gáy, không chỉ làm nhãn cầu bật ra, mà tai trái cũng bị chém xuống, chỉ còn dính chút da, đung đa đung đưa bên má.
– Ngươi muốn kinh động người ngoài, thừa cơ hỗn loạn để tháo thân ư? – Trương Thiên Ý cười rinh rich, chậm rãi từ trong đám đất cát mù mịt bước ra, áo trắng không hề vẩn bụi, Thanh Phong kiếm sáng lóa hơn cả lúc trước, máu tươi rỏ giọt xuống theo mũi kiếm, tụ thành một vũng nhỏ trên đất. Bấy giờ Lạc Chi Dương mới phát hiện ra, trên người Triệu Thế Hùng đã có thêm không chỉ một đường kiếm, da thịt ở một số nơi đã biến mất, xương lộ ra trắng ởn. Thình lình, Lạc Chi Dương hiểu ra dụng tâm của Trương Thiên Ý. Y oán độc quá sâu, giết chết đối thủ không đủ rửa hận, nhất định phải từng kiếm từng kiếm một lăng trì người ta, mới xứng tâm khoái ý.
Nhìn Triệu Thế Hùng, Lạc Chi Dương động lòng trắc ẩn, gần như không nỡ nhìn tiếp, nhưng Trương Thiên Ý không cho đối thủ nghỉ lấy hơi, mũi kiếm đã như độc xà ngẩng lên. Triệu Thế Hùng lảo đảo giật lui, huơ đao chém ngang, nhát đao rối loạn, khí thế lúc trước đã mất hết. Trương Thiên Ý bật ra “ha” một tiếng, nhẹ nhàng né tránh mũi đao, Thanh Phong kiếm đâm chếch sang trái, xuyên thủng hõm vai của đối thủ. Triệu Thế Hùng rống lên một tiếng, giơ tay ra tóm, Thanh Phong kiếm như thiểm điện lập tức giật lui, thuận thế hướng chếch ra ngoài, năm ngón tay nhất loạt bị chém phăng, rơi xuống đất.
– Còn mười hai kiếm nữa! – Giọng Trương Thiên Ý toát lên hứng thú, hai mắt sáng ngời, cánh mũi phập phồng, khuôn mặt hồng hào, tựa ngư phủ buông cần nhìn cá trê mắc câu. Keng, Thanh Phong kiếm vạch ra một đường cong sáng, đâm vào bụng dưới Triệu Thế Hùng.
Triệu Thế Hùng gắng sức nhảy lui ra sau, đáp xuống sau lưng một khách xem, người đó bị Dạ vũ thần châm đâm trúng huyệt đạo, trong lòng hiểu rõ mình không thể động đậy được, bất chợt hậu tâm lạnh toát, Thanh Phong kiếm đã xuyên thấu ngực, tức thì toàn thân mềm nhũn, chết ngay tại chỗ.
Trương Thiên Ý rút kiếm ra, nhíu mày, bất chợt cảm thấy gió táp vào mặt, đảo mắt nhìn thì thấy Triệu Thế Hùng đơn thủ huy đao, gẩy một khách xem lên, hất về phía y. Trương Thiên Ý xoay nghiêng mình tránh đi, người đó lao đầu xuống đất, não tương bắn tóe ra. Y chưa trụ lại được, Triệu Thế Hùng lại gẩy tiếp một người, Trương Thiên Ý không tránh được nữa, mũi kiếm nảy lên, người nọ tức thì bị chém ngang lưng, máu tươi bắn vọt ra, nhuộm đen ngực áo trắng tuyết.
Triệu Thế Hùng khập khiễng, nhưng thân pháp như gió, luồn lách giữa đám đông, khách xem kịch trong vườn đều biến thành bia chắn kiếm cho lão. Trương Thiên Ý múa kiếm vun vút, chân lìa tay đứt bay loạn xạ.
Hai người đều là hạng tâm lang thủ lạt, một người chỉ muốn báo thù, một người chỉ cốt thoát thân, thế như hai luồng gió giật cuộn tới dạt đi, người trong vườn không chết thì bị thương, chỉ vì huyệt đạo đều bị chế trụ rồi, cho dù tử thương cũng không kêu được một tiếng. Thiếu niên trên cây chứng kiến thảm cảnh nhân gian này, cảm thấy đầu óc tê liệt, cổ họng khô kiệt, chỉ muốn tháo chạy.
Trong vườn đao quang kiếm ảnh. Ngoài vườn người bâu xâu mỗi lúc một đông, chỉ trỏ cánh cổng, lào xào bàn tán, hết gõ cửa lại xô cửa, hoàn toàn trái ngược với không khí tĩnh lặng bên trong.
Người Trương Thiên Ý đã bắn đầy máu, lòng thầm ân hận, tiếc rằng lúc trên hí đài lại cứ rập rình, không giết luôn kẻ thù đi. Nghĩ đến đây, tả thủ xuất chưởng quét bay hết xác người, hữu thủ xuất kiếm vô cùng tàn độc, nhằm thẳng vào những chỗ yếu hại của Triệu Thế Hùng.
Triệu Thế Hùng dùng các xác người làm khiên chắn, lùi dần lùi dần, chẳng mấy chốc đã lùi đến sát tường bao. Trương Thiên Ý cảm thấy bất diệu, bèn quát một tiếng, phóng kiếm đâm tới. Triệu Thế Hùng nhảy vọt ra sau, xẹt ra sau một cây thùy liễu. Mũi kiếm vòng theo, cây liễu bị chặt gãy, bấy giờ, chợt nghe một tiếng hô vang, tiếp đến bên trên tối sầm lại, Triệu Thế Hùng nhảy lên lưng chừng không, đao quang xé gió chém xuống.
Đường đao này thanh thế kinh nhân, Trương Thiên Ý cương mãnh là thế mà cũng phải lạng người né đi. Thân pháp y nhanh như khói mỏng, Triệu Thế Hùng chém hụt, phập một tiếng, chém sâu xuống đất đến hơn nửa thước. Trương Thiên Ý lao mình tới, chợt nghe tiếng cười khẽ, Triệu Thế Hùng đã nhấn xuống trường đao lấy đà, phi thân lên như đại điểu, bốc mình qua bờ tường cao hơn hai trượng.
Huy đao chém người là giả, tá lực đào thoát mới là mục đích thực sự. Trương Thiên Ý phán đoán sai, vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Y bốc mình lên đầu tường, dõi mắt nhìn, thấy bóng người cà thọt lao vào một ngõ nhỏ, lẩn vào đám đông, khiến nhiều người la lên oai oái.
Dù tàn độc đến đâu cũng không thể chém người giữa đường giữa phố. Trương Thiên Ý ngập ngừng một lát, lại ngoái đầu nhìn. Trong sân lổng chổng la liệt toàn tàn thi, tứ chi, và những người bị thương nhưng chưa đoạn khí đang quằn quại. Y cau mày phất tay, thinh không lóe tinh quang, những người giãy giụa đều chết hết, mùi máu tanh theo gió tản ra, nhòa vào bóng tối sâu thẳm.
Lạc Chi Dương thừ người một lúc, khi đảo mắt nhìn lại, đầu tường đã trống không, chẳng thấy bóng dáng Trương Thiên Ý đâu nữa.
Hai thiếu niên tựa hồ vừa gặp ác mộng, đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng theo thân cây tụt xuống. Ngõ này tiếp giáp Tần Hoài, ít người qua lại. Hai gã vừa tiếp đất là vắt chân lên cổ mà chạy. Chạy ra tới bờ sông, ngoái đầu nhìn lại, trong ngõ hỏa quang lập lòe, tiếng nói lào xào huyên náo, chắc là có người thấy Triệu Thế Hùng từ trong ngõ lao ra, bèn chạy lại xem tình hình thế nào. Hai gã tim đập thình thình, vừa rồi mà chậm trễ, thì nhất định đã bị người ta tóm được rồi.
Gió sông hiu hiu thổi tới, cả hai hồi tưởng chuyện ban nãy, thảy đều ớn lạnh. Giang Tiểu Lưu run rẩy hỏi:
– Lạc… Lạc Chi Dương, tiếp theo đây nên làm thế nào?
Lạc Chi Dương nhăn nhó:
– Còn làm thế nào? Ai về nhà nấy.
Giang Tiểu Lưu run cầm cập:
– Nhiều… nhiều người chết quá.
– Thế thì sao? Ngươi có muốn bắt hung thủ không?
– Phì! – Giang Tiểu Lưu lộ vẻ giận – Bắt hung thủ là tự tìm đến cái chết rồi còn gì. Hai người đó, không, hai kẻ đó căn bản là yêu quái. Xúi quẩy, xúi quẩy, lão tử hôm nay bị Thái Tuế chiếu mạng, lại đụng ngay hạng yêu quái. Lạc Chi Dương, sau này mà có người hỏi tới, thì nói là lão tử ngồi nghe thuyết thư ở Huyền Hà lâu, chứ không hề đi xem kịch nghe chưa.
Lạc Chi Dương cười cười, quay đầu đi, đi được mười mấy bước thì rút địch ra, réo rắt thổi. Tiếng địch uyển chuyển thánh thót, hệt như muôn tơ ngàn mối vấn vít bên tai Giang Tiểu Lưu.
Giữa sóng một vầng trăng nhỏ, như cá sấu nhả ngọc, một con thuyền hoa từ bên cạnh đi qua, mái chèo khua vỡ ánh trăng, làm thanh quang lăn tăn tỏa rộng.
Lạc Chi Dương sống ở hạ du Tần Hoài, ngoại vi kinh thành. Gã mải mốt đi, đèn đuốc đằng sau thưa dần, con đường trước mặt càng lúc càng tối, vừa định ngoặt qua một góc tường, thì một bàn tay hộ pháp từ bên cạnh thọc ra, bóp nghiến lấy cổ gã.
Lạc Chi Dương ngạt thở, bất giác tay đấm chân đá loạn xạ, nhưng bàn tay nọ cứng như sắt, làm thế nào cũng không chịu buông ra. Gã không tự chủ được nữa, bị người đó kéo giật ngược, lôi ra khỏi vùng có ánh đèn, lọt vào một con ngõ tối om.
Lạc Chi Dương cảm thấy cổ mình bị siết sắp đứt rời ra rồi, trong lúc hoảng loạn, gã mò mẫm lấy cây trúc địch, lật tay đâm vào người nọ, không ngờ đúng lúc này bàn tay hộ pháp buông thõng, đối phương lùi lại hai bước, ngồi phịch xuống đất.
Lạc Chi Dương được tự do, bèn co cẳng chạy, đã mấy bước mà chẳng thấy ai đuổi theo, không nhịn được ngoái đầu trông, thì thấy chỗ góc tường là một bóng đen rúm ró, đang thở hồng hộc.
– Á! – Lạc Chi Dương ngoác miệng kêu – Là ông?
Người nọ ngẩng mặt lên, máu thịt bầy nhầy, dưới ánh trăng nhợt nhạt, nửa bộ mặt đã bay đi đâu mất, tai vẫn còn dính chút da đung đa đung đưa.
– Ngươi biết ta à? – Triệu Thế Hùng khàn giọng hỏi, mắt ánh lên nghi hoặc.
– Tôi… – Lạc Chi Dương ngẩn người, thầm nghĩ chuyện trong hí viên nhất thiết không thể nói ra, bèn bẻ queo đi – Tôi từng xem ông đóng kịch.
– Đóng kịch? – Triệu Thế Hùng bật cười khô khốc, cúi đầu thở dài – Đúng đấy. Đời này của ta chỉ toàn là đóng kịch cả thôi…
Nói tới đây, lão vụt ngẩng lên, chằm chằm nhìn Lạc Chi Dương, đanh giọng hỏi:
– Tiểu tử, vừa rồi ngươi có thể tháo chạy, vì sao quay lại?
Lạc Chi Dương nói:
– Ông bị thương nặng mà.
Triệu Thế Hùng hừ mũi:
– Ta sống chẳng bao lâu nữa, đáng tiếc vẫn còn tâm sự trùng trùng, có hơi di hận.
– Tâm sự gì? – Lạc Chi Dương buột miệng, rồi thầm tự trách, kẻ này tâm lang thủ lạt, căn bản không đáng thương tiếc, nhưng không hiểu sao, thấy lão người ngợm bung lở, trong lòng lại buồn buồn.
Triệu Thế Hùng nhìn thấu tận tâm tư của gã, cười bảo:
– Ta đổi tên không ít, chẳng kể làm gì, nhưng tên thật thì chỉ có một, là Triệu Ứng Long, từng làm đại tướng cho Trương Sĩ Thành, về sau lại bán đứng chủ, giúp Chu Nguyên Chương phá Bình Giang[1], còn sát hại trưởng tử Thiên Tứ của Trương gia. Ôi, tiểu tử đó tính cách quật cường, nếu cứ đơn giản giao đồ vật ra, ta cũng chẳng đến nỗi chém nó nhiều nhát như vậy…
Lạc Chi Dương lòng bỗng nổi cơn nộ hỏa, đã chực lên tiếng rủa xả, nhưng lời vừa ra tới miệng lại nuốt ực trở vào. Chỉ nghe Triệu Thế Hùng tiếp tục:
– Rất nhiều người cho rằng, ta phản bội Trương Sĩ Thành là muốn thăng quan tiến tước, nhưng thế là xem nhẹ ta quá rồi. Đừng nói quan chức của Chu Nguyên Chương không dễ làm, mà cho dù lão có tấn phong ta thật, ta cũng chẳng có bao nhiêu hứng thú…
Lạc Chi Dương thấy lão vẫn giữ giọng vênh vang, bèn hậm hực hỏi:
– Thế ông hứng thú với cái gì?
Triệu Thế Hùng mỉm cười, thốt ra từng chữ:
– Võ công.
– Võ công? – Lạc Chi Dương ngẩn người.
– Phải – Triệu Thế Hùng thở dài – Trên đời này có người muốn tiền tài, có người muốn quyền thế, còn ta, duy chỉ muốn thiên hạ vô địch võ công.
– Thiên hạ vô địch? – Lạc Chi Dương càng thêm quái lạ – Nó có gì hay?
Triệu Thế Hùng lắc đầu:
– Ngươi vô cừu vô oán, dĩ nhiên không thấy gì hay. Nhưng nếu ngươi có một đại cừu nhân, võ công thuộc loại hiếm thấy trên đời, muốn báo thù hắn, thì ngoài võ công cao cường hơn hắn ra, thật sự không còn phương cách nào khác.
Nói đến đây, lão im lặng ngẩng mặt lên, đăm đăm nhìn trời một lúc, thở dài rồi u uẩn nói:
– Ta vốn là tiêu sư của Hổ Uy tiêu cục đất Thái Châu, gia phụ Triệu Sư Ngạn là tiêu đầu của tiêu cục, danh hiệu Trảm Phong Đao xa gần đều nghe, bình sinh hộ tiêu chưa hề sơ thất. Song thân sinh hạ ba nam một nữ, ta bày vai thứ hai, năm mười tám tuổi, thiên hạ đại loạn, đường sá cũng không còn thái bình. Cùng năm ấy, gia phụ dẫn ta áp tải một chuyến ngân tiêu đến Bình Giang. Ra khỏi Thái Châu chưa bao xa, đột nhiên có kẻ chặn đường.
Thoạt tiên, gia phụ tưởng chúng là thổ phỉ bình thường, bèn lấy ra hai đĩnh bạc để bảo bọn chúng nhường đường, nào ngờ tên đầu lĩnh tiếp lấy hai đĩnh bạc xong, lại quăng đi, cười bảo, “Bố thí ăn mày à? Triệu Sư Ngạn, ta biết ngươi đích thân xuất mã thì hàng hóa chẳng phải tầm thường nữa. Gần đây ta túng bấn lắm, ngươi làm việc thiện chút đi, chia cho ta một nửa lô hàng, ta thúc ngựa đi liền, quyết không gây khó dễ cho ngươi.” Tên thổ phỉ này biết rõ lai lịch của gia phụ, vừa mở miệng là đòi thẳng một nửa chuyến hàng, gia phụ không khỏi ngạc nhiên, bèn hỏi thân phận hắn, kẻ đó chỉ cười không đáp. Có tiêu sư bất nhẫn, tiến lên khiêu chiến, nhưng không địch nổi khoái kiếm của hắn, chỉ thoáng chốc đã bị thương mất hai người. Ta thấy vậy thì nổi cơn thịnh nổ, muốn lao ra nhưng gia phụ ngăn lại, nói với kẻ kia, “Kiếm pháp uy dũng, chỉ hiềm chiêu thức lạ mắt. Triệu mỗ đao hạ không chém kẻ vô danh, ngươi báo tên đi!” Kẻ nọ cười, “Ta chặn đường cướp bóc cũng là do tình thế bức bách, khai báo tên tuổi, e làm nhục sư môn. Trước giờ vẫn nghe tiếng Trảm Phong đao, một đao vừa xuất, đứt gió tan mây, bỉ nhân ngưỡng mộ bấy lâu, hôm nay mong được chỉ giáo!” Gia phụ thấy kiếm pháp hắn ta tinh diệu, nói năng lại đâu ra đấy, rõ ràng không phải thổ phỉ bình thường, bèn tuốt đao khỏi vỏ, “Chút tiếng tăm hèn mọn, đâu đáng nhắc đến, túc hạ kiếm pháp cao minh, bỉ nhân bội phục, nhưng ngươi đả thương tiêu sư của ta, thì không thể quấy quá cho qua được!” Dứt lời song phương đồng xuất thủ.
Kẻ nọ kiếm pháp tuy nhanh, nhưng không đủ sắc sảo, chưa đến hai mươi chiêu, sườn trái tay phải đều trúng đao của gia phụ, trường kiếm cũng rơi xuống đất. Ta đứng bên nhìn, vốn tưởng gia phụ đao tiếp theo sẽ lấy mạng hắn, nào ngờ gia phụ lại nhảy lui, “Ngươi đả thương hai thủ hạ của ta, ta cũng chém ngươi hai nhát, chúng ta không ai nợ ai nữa, đường ai nấy đi thôi.” Kẻ nọ chằm chằm nhìn gia phụ, nhếch cười rất quái lạ, “Triệu Sư Ngạn, ngươi không giết ta, sau này đừng hối hận.” Gia phụ khẳng khái đáp, “Triệu mỗ hành xử chính trực, chưa bao giờ hối hận.” Kẻ nọ cười ha hả, ‘Hay cho cái hành xử chính trực, Triệu Sư Ngạn, hai đao này ta ghi sổ đấy.” Nói đoạn cởi đai lưng ném xuống đất, tập tễnh dẫn người bỏ đi.
Ta trông mà lo lắng, bèn oán trách, “Kẻ này cuồng ngạo như vậy, vì sao không một đao chém phăng hắn đi?” Gia phụ lắc đầu, “Hắn ta kiếm pháp thập phần cao minh, chỉ là học nghệ chưa tinh nên mới bại dưới tay ta. Người này lai lịch bất phàm, ta giết hắn không khó, nhưng nếu đắc tội với kẻ chống lưng cho hắn, chỉ e không dễ đối phó. Ứng Long à, con nhất định phải nhớ, dân bảo tiêu như chúng ta, trên đầu luôn đội một chữ ‘nhẫn’, chữ thứ hai chính là ‘võ’, nếu gặp trộm giết trộm, gặp cướp giết cướp, hóa ra con định giết sạch trộm cướp trên đời này hay sao?” Ta không nói gì, lại ngó chiếc đai lưng dưới đất, nhất thời hiếu kỳ bèn lượm lên, chỉ thấy trên đó thêu một con đà long nhỏ bằng bạc, bèn đưa phụ thân xem. Người vừa liếc qua, mặt đã tái nhợt, không để ai nhìn thấy, cho ngay vào ngực áo, rồi hô gọi các tiêu sư mau lên đường.
Trên đường, gia phụ hết sức trầm tư, ta thấy người tâm trạng nặng nề, mấy lần gạn hỏi, người đều đánh trống lảng. Không lâu sau tới Bình Giang, giao xong hàng hóa, chiều hôm ấy, gia phụ gọi ta đến mà bảo rằng, “Ta vừa nhận hai mối làm ăn, một là đi Dương Châu, hai là đi rất xa, đến tận Cửu Giang ở Giang Tây. Ta đã cân nhắc mãi, hai lô hàng này rất quan trọng, đúng như người ta thường nói ‘đả hổ thân huynh đệ, lâm trận phụ tử binh’[2], ta không yên tâm giao lô hàng này cho người khác, Ứng Long à, con tuổi còn nhỏ, nhưng đã học được chân truyền của ta, vì thế ta muốn con tự lo một chuyến. Con xem, Dương Châu, Cửu Giang, con muốn đi ngả nào?”
Ta nghe vậy, mừng rỡ vô cùng, theo gia phụ đi đã mấy chuyến tiêu, nhưng chưa bao giờ được độc lập tác chiến, đại trượng phu phải biết đương đầu gian khó, đã bảo tiêu thì càng xa càng tốt, bèn thẳng thắn đáp, “Con đi Cửu Giang!” Gia phụ gật đầu, “Có chí khí! Không hổ là nhi lang của Triệu gia chúng ta.” Nói đoạn đưa một chiếc tráp ra. Tráp này bằng gỗ nam cẩn ngọc, cầm trĩu cả tay, ta đoán chừng bên trong không phải vàng bạc châu báu thì cũng là đồ cổ quý giá, tay nâng nó lên mà lòng mừng đến run rẩy. Phụ thân vỗ vai ta, dặn dò, “Đầu tháng Năm nhất định phải đưa được tráp này đến đích, người nhận là Trần Tỉnh Sinh Trần lão gia của hãng châu báu Cát Tường phố Bắc Đại đất Cửu Giang. Con nhớ chưa?” Ta nhẩm lại mấy lần, nhớ kỹ rồi, gia phụ lại dặn, “Lần đầu bảo tiêu, ta phái mấy tiêu sư tâm phúc đi với con. Bọn họ đều từng trải giang hồ, trên đường con nhất định phải tham vấn họ.” Ta vui sướng ngập lòng, chỉ muốn mau mau xuất phát, bèn vâng dạ rồi quay mình đi luôn. Bước tới cửa, ta ngoái lại nhìn phụ thân, nhận ra người đang đờ đẫn nhìn ta, mắt long lanh lệ…
Kể đến đây, Triệu Thế Hùng ngẩng đầu lên, con mắt còn lại dõi vào thinh không sâu thẳm, vẻ bâng khuâng. Lạc Chi Dương sốt ruột hỏi:
– Vì sao lệnh tôn lại buồn thế?
Triệu Thế Hùng trầm mặc một lúc, nhẹ nhàng đáp:
– Bấy giờ ta chỉ mải cao hứng, thấy thần sắc gia phụ như vậy mà cũng không màng để tâm suy xét cho kỹ. Tưởng rằng người tuổi tác đã cao nên dễ mềm lòng, thương nỗi biệt ly. Chuyến tiêu lại vô cùng quan trọng, ta không dám chậm trễ thêm một thời khắc nào nữa, nên xuất hành ngay trong đêm. Bấy giờ nạn đói hoành hành, đạo tặc như ong, xe tiêu dọc đường gặp không biết bao nhiêu trắc trở, may mà đao pháp của ta đã có chút tựu thành, các tiêu sư phụ tá cũng rất đắc lực, vào buổi chiều ngày mùng sáu tháng Năm, cuối cùng đã tới được Cửu Giang, ai ngờ đến nơi hỏi thăm, chỉ kêu được một tiếng khổ, không hiểu thế là thế nào nữa.
– Sao cơ? – Lạc Chi Dương hỏi dồn – Có kẻ cướp tiêu?
– Không phải – Triệu Thế Hùng lắc đầu – Cửu Giang quả có một con phố tên Bắc Đại, nhưng phố này chẳng hề có tiệm châu báu Cát Tường, càng không tồn tại lão gia nào gọi là Trần Tỉnh Sinh hết.
Lạc Chi Dương đoán:
– Chắc lệnh tôn nhớ nhầm.
Triệu Thế Hùng thở dài:
– Gia phụ không nhớ nhầm, chỉ là nói dối thôi.
Lạc Chi Dương càng thắc mắc:
– Ông ấy nói dối làm gì cơ?
Triệu Thế Hùng nói:
– Ta cũng băn khoăn, gia phụ xưa nay hành sự nghiêm túc thẳng thắn, sao lại bày ra trò đùa như vậy? Lại nhớ dáng vẻ người trước lúc lên đường, ta càng thêm bất an. Bấy giờ một tiêu sư gợi ý, đã không tìm thấy người nhận, chi bằng mở xem đồ vật trong tráp. Ta như choàng tỉnh, lật đật mở tráp ra xem, bên trong nhét đầy bạc thoi vàng nén, bên trên đống bạc vàng đó, có một bức thư do chính phụ thân chấp bút. Ta hết sức kinh ngạc, giở thư ra xem, thì suýt nữa ngã ngất.
– Thư viết gì? – Lạc Chi Dương hỏi.
Triệu Thế Hùng thở dài:
– Trong thư gia phụ viết, khi ta đọc được lá thư này thì có thể người đã chết rồi. Tên cướp gặp ở ngoại thành Thái Châu hôm ấy là Diêm Kiêu của Diêm bang đất Thái Châu, con đà long bạc là tiêu ký của chúng. Diêm bang vốn dĩ không đáng sợ, nhưng thế lực hậu thuẫn cho chúng thì ghê gớm vô cùng, tương truyền đầu não của Diêm bang đều xuất thân Đông Đảo…
– Đông Đảo? – Lạc Chi Dương nghi hoặc – Là cái gì chứ?
Triệu Thế Hùng cười khổ:
– Cái tên này ngày nay kể cũng lạ lẫm rồi, nhưng ba mươi năm trước thì như sấm động bên ta. Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Bành Doanh Ngọc khởi sự phản Nguyên thời ấy đều xuất thân Đông Đảo. Họ dùng khăn hồng chít đầu, như tuyên thị về sự kế thừa di phong của Hồng Đái Quân. Hồng Đái Quân vốn do Vân Thù[3] Vân đại hiệp sáng lập. Vân đại hiệp là đại tướng của Tống triều, từng dấy binh chống Nguyên hồi Tống diệt Nguyên hưng, uy chấn Hoa Hạ, về sau dụng binh thất lợi, bị quân Nguyên vây khốn ở Nhạn Đãng sơn đất Chiết Giang, kiên cường khổ chiến, cuối cùng bi tráng tuẫn tiết vì nước. Đệ tử Đông Đảo tiếp thụ di chí của đại hiệp, nên luôn coi việc đuổi quân Hồ Lỗ là trách nhiệm của mình, do thế đơn lực mỏng nên ra sức chiêu mộ thêm người. Môn hạ đông đúc, khiến việc sàng lọc tài đức cũng không khỏi sơ suất. Hàn, Từ, Bành ba người ta nhắc bên trên đều quang minh lỗi lạc, vốn là hào kiệt một thời, đáng tiếc không thạo tranh quyền đoạt lợi, cuối cùng đều chết trong tay những kẻ bại hoại của Đông Đảo. Về sau mấy kẻ tranh giành thiên hạ với Chu Nguyên Chương như Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Phương Quốc Trân, Minh Ngọc Trân, tuy cũng mang tiếng là đệ tử Đông Đảo, nhưng kẻ nào kẻ nấy âm hiểm ngoan độc, hiếu sát vô độ, lại thêm Vân Xán người đứng đầu Đông Đảo bấy giờ lại thuộc dạng hồ đồ thiên kiến, không biết phân biệt xấu tốt, bảo bọc lũ bại hoại, họa hại chúng sinh, gần như hủy diệt cơ nghiệp của Đông Đảo.
[1] Nay là Tô Châu.
[2] Ý là những việc quan trọng, chỉ nên trông cậy vào người thân của mình.
[3] Nhân vật trong Côn Luân.
--- Hết phần dịch của Alex ---
------------------------------------------------------- levan dịch ----------------------------------------
Triệu Thế Hùng hồi tưởng tình hình quần hùng đuổi hươu năm đó, cố đè nén những đợt sóng đang trào dâng trong lòng, y trầm mặc thật lâu rồi nói tiếp:" Chuyện này khá dài, tạm không đề cập đến. Tại Thái Châu, Diêm Bang vốn là một tập hợp của bọn buôn bán muối lậu, không biết do đâu mà đầu nhập vào Đông Đảo, đã dựa vào đấy, diệu võ dương oai, tạo thế lực hùng mạnh, có thể nói tiếng xấu vang dội trọn một dải Dương Châu, Thái Châu. Trước thế lực khổng lồ của chúng, bọn quan phủ đành nhắm mắt làm ngơ, không dám đụng chạm tới. Ký hiệu Đông Đảo là con kỳ nhông vàng, Diêm Bang với thân phận phân đà, lấy tiêu ký là một con kỳ nhông bạc cũng đúng thôi. Thời đó, Diêm Bang tác ác, phần lớn trong những giao dịch cùng đám dân bán muối lậu, chưa từng nghe nói có cướp bóc xe tiêu. Theo ta đoán, chuyện chặn xe bảo tiêu, chắc hẳn y làm bang chúng, gặp hồi buôn bán thua lỗ, không có tiền nộp lên cấp trên, đành phải dùng đến hạ sách đó. Chẳng dè đụng phải gia phụ võ nghệ vượt trội, cướp bóc không thành công, hắn đành ôm thương tích ra về. Nhưng Diêm Bang nổi tiếng mang khí lượng hẹp hòi, khi bị thua thiệt, họ quyết phải trả miếng, họ đã từng tàn sát toàn gia đối thủ để xóa nợ. Luận võ công gia phụ, cao thủ Diêm Bang chưa chắc làm gì được ông, nhưng một khi Đông Đảo nhúng tay vào, tiêu cục tuyệt không có lấy một chút sinh cơ nào. Nhìn thấy dấu hiệu con kỳ nhông bạc, gia phụ biết khó tránh tai kiếp, nên đã sắp đặt cho ta đi chuyến bảo tiêu thật xa, tránh cho ta thoát chết khi Diêm Bang ra tay nhổ cỏ tận gốc. Người biết ta tâm tính cao ngạo, giữa hai lựa chọn bảo tiêu, thể nào ta cũng đòi đi Cửu Giang, một khi đến nơi và phát giác chuyện không hay, ta dù có muốn lập tức trở về Thái Châu cũng chẳng được. Trong thư, người còn dặn ta chiếu cố bọn tiêu sư, mấy mươi năm qua họ từng theo ông vào sinh ra tử, dặn không cho bọn họ xả mạng cứu giúp, bảo ta đem số vàng bạc trong hộp chia đều cho mọi người, rồi khuyên ttast cả xa chạy cao bay, tuyệt đối không trở về Thái Châu!”.
Đọc xong thư, đoàn ta vừa buồn vừa tức, ai cũng khóc rống, cả bọn chỉ muốn chạy ngay về Thái Châu, cùng sống chết với gia phụ. Nhưng thật ra, khi bình tĩnh lại và ngẫm nghĩ kỹ , ta thấy rõ, kẻ địch người đông thế lớn, với vốn võ công có hạn, đám tiêu sư này nếu trở về, tất là đâm đầu vào chỗ chết, vì thế, ta quát bảo mọi người ngưng khóc, rồi đem chia đều cho nhau tất cả vàng bạc. Sau đó, ta một mình một đao lẻn về Thái Châu. Ai ngờ lúc vào thành, ta hệt như bị sét đánh ngang tai, chẳng những gia phụ gặp nạn, toàn thể người trong tiêu cục đều chết trong cùng một đêm, tất cả nhà cửa, phòng ốc đều bị đốt cháy tan tành. Đến ngay cả chị ta ở thật xa tận Dương Châu cũng không thoát khỏi, một nhà mười hai nhân mạng, bất kể nam nữ, già trẻ, thảy đều bị giết chết..."
Nói đến đây, Triệu Thế Hùng nghỉ một chút, thân hình to lớn của y co rúm lại, những vết thương toác ra, máu me bắn tung tóe đầy đất. Lạc Chi Dương nhìn hán tử này, nghĩ đến mối huyết hải thâm cừu của y, trong lòng không khỏi thương cảm, nhịn không được, hắn bảo:" Ông bị thương quá nặng, tôi phải đưa ông tìm thầy thuốc..." Nói xong hắn ghé sát vào, bất ngờ, Triệu Thế Hùng nhanh như chớp giật vụt vươn mình ra, thít chặt lấy cổ tay của hắn.
Cánh tay Lạc Chi Dương hầu như muốn gẫy, hắn đau đớn cơ hồ ngất xỉu. Giữa lúc ấy, hung quang trong mắt Triệu Thế Hùng bỗng dịu xuống, y buông tay Lạc Chi Dương ra, cười khổ, nói:" Ta mất máu nhiều quá, tạng phủ lại bị chấn thương nặng, cho dù Hoa Đà sống lại cũng không cứu nổi. Ta đây sắp chết, lời nói cũng lành, này một thiên cố sự ta chôn giấu trong lòng bấy lâu nay, nếu không nói ra, sợ là chết không nhắm được mắt. Tiểu huynh đệ, ngươi là người tốt, đã tốt thì tốt cho đến cùng, xin gắng nghe ta nói cho dứt!"
Lạc Chi Dương không cách gì khác hơn là gật đầu. Triệu Thế Hùng nghỉ một lúc, rồi nói tiếp:" Lúc ấy ta giận điên cuồng, chỉ nghĩ đến báo thù rửa hận, đã bịt mặt, thay quần áo, lẻn vào tổng đàn Diêm Bang, ám sát hai thủ lĩnh của chúng. Diêm Bang vừa sợ vừa giận, tung tay chân vào thành truy lùng, lại triệu được hai cao thủ Đông Đảo cao thủ đến giúp, ta cùng chúng giao đấu, kết cục suýt chết, thân mang trọng thương, phải trốn vào rừng sâu, rất may được một vị cao tăng nuôi dưỡng, ta phải nghỉ ngơi chữa trị mất mấy tháng mới lành lặn trở lại. Chính vào lúc ta rời chỗ ẩn náu ra đi, Hồng Cân quân đã khởi sự tại Trung Nguyên, nghĩa quân phương nam cũng rùng rùng hưởng ứng, Diêm Bang vụt thay đổi, biến thành một chi phái của nghĩa quân, cùng đánh đuổi bọn quan lại Đại Nguyên, đoạt lại Thái Châu, Dương Châu”.
"Kẻ thù ngày càng vững mạnh, chuyện báo thù dần dà trở thành diệu vợi, trong khói lửa chiến tranh ngút trời, khắp nơi đều nhan nhản dân chạy loạn. Ta trà trộn trong đám nạn dân, mai danh ẩn tính mất mấy tháng. Một ngày nọ, khi vào đến ngoại thành Cao Bưu, ta chợt nghe tiếng hô vang:‘Trương thủ thành, Trương đại soái đã đến!’, lúc ta lại gần, bỗng nghe vang lên hồi kèn dạo đầu mở đường cho một đạo nhân mã. Mấy ngày gần đấy, ta cũng từng nghe qua đại danh Trương Sĩ Thành, đồn rằng hắn oai phong lẫm lẫm, đánh bại quân Nguyên, vì thế, ta giương mắt nhìn kỹ. Chỉ thấy đầu lĩnh là một người mang kim khôi ngân giáp, cưỡi con ngựa bạch, khi gặp gỡ dân chúng ngoài thành, miệng cười hì hì, chắp hai tay, xoay vòng chào họ. Nom rõ dung mạo người này, ta hầu như phát điên đến nổ ruột. Thằng nhãi này không phải ai xa lạ, chính là tên thổ phỉ cướp phiêu ngày nọ, sống sót chỉ nhờ gia phụ còn chút lòng nhân, đã không một đao vung tay chém chết. Hiện giờ, tên cẩu tặc này lột bộ vó con khỉ trở thành một tướng quân, nghiễm nhiên là thủ lĩnh nghĩa quân Giang Hoài. Lúc ấy, ta tức giận cành hông, tay đà nắm chặt chuôi đao toan động thủ, may thay, khi đảo ánh mắt ra sau lưng Trương Sĩ Thành, ta nhận ra hai lão già cưỡi ngựa theo hắn chính là cao thủ Đông Đảo, ngày nọ đã đánh ta trọng thương. Trước tình thế đó, ta biết chẳng thể giết Trương Sĩ Thành, đành phải tạm thời nén giận mà nín nhịn.
"Ngay buổi tối hôm ấy, ta nghĩ tới nghĩ lui kế hoạch báo thù, chợt nhớ lời dạy bảo của cha ta, ông nói:‘Bọn mình hành nghề bảo tiêu, bao giờ cũng phải đặt một chữ nhẫn lên hàng đầu, sau đó mới tính chuyện động võ.’, Hiện giờ, chẳng thể báo thù bằng vũ lực, chỉ có hơn thua nhau ở chữ ‘nhẫn’ mà thôi. Ngày xưa, Câu Tiễn vua nước Việt từng phải hạ mình làm tôi đòi hầu hạ Ngô vương để tìm lại tự do, rồi ròng rã mười năm gầy dựng lực lượng, huấn luyện sĩ tốt, rốt cục đánh bại kẻ thù, gồm thâu Ngô quốc, rửa được tuyết hận. Giờ đây, trước một đối thủ hùng mạnh như thế mà cứ cố tìm cách báo thù ngay, há chẳng phải không biết tự lượng sức mình ư? Nghĩ vậy, ta tức thì sáng suốt , ngày hôm sau, ta đem bán bảo đao tổ truyền, lấy tiền rèn một thanh đại quan đao nặng tám mươi mốt cân, rồi dùng tên giả là Triệu Thế Hùng, ta đầu quân cho Trương Sĩ Thành. Từ một tiểu tốt, ta xung phong phá trận, lập nhiều kì công. Sau hơn một năm, cái danh hiệu ‘Khoái tai đao’ vang dội đến bên tai Trương Sĩ Thành. Dung mạo ta khi đó thay đổi, ta lại sử đại quan đao, không hề dùng võ nghệ đơn đao gia truyền, Trương Sĩ Thành không nhận ra ta, ngược lại y còn thăng quan tiến chức cho ta. Cũng là ý trời định đoạt, sau đó, hắn bị ma quỷ làm mê lấp ý trí, dần dà cư xử ta như tâm phúc, phong ta chức thống lĩnh hộ vệ quân dưới trướng của hắn."
Lạc Chi Dương nhịn không được, hỏi:" Rồi ông có ám sát được hắn không?"
" Không có ám sát!" Triệu Thế Hùng lắc đầu, đáp," Hồi đó ta muốn giết hắn, thật sự dễ như trở bàn tay, nhưng giết được hắn rồi, còn bộ sậu đầu lĩnh Diêm Bang nữa kia. Huống hồ kẻ thù của ta, ngoài Diêm Bang, còn có Đông Đảo, muốn báo thù đích đáng, phải làm cho Trương Sĩ Thành tan nhà, mất nước. Được vậy chăng nữa, cũng bất quá phá hủy Diêm Bang ở Thái Châu, Đông Đảo ở mé sau vẫn an nhiên, chẳng bị sứt mẻ gì. Mang ý niệm này trong đầu, ta tiếp tục ẩn nhẫn chờ thời, rốt cục sau đó, trên trời rơi xuống cho một cơ hội."
"Cơ hội gì thế?", Lạc Chi Dương tò mò.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK
Chương trước
Chương trước
Chương sau
Chương sau
Về đầu trang
Về đầu trang