• Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

“Nào nào, tiểu thư. Người không cần những thứ này nữa. Một sự giải thoát đấy, tôi nghĩ thế.”

Với tiếng sột soạt nho nhỏ, mảnh vải lanh cuối cùng tuột khỏi bắp tay của Nasuada khi cô hầu gái của nàng, Farica, tháo bỏ lớp băng bó đi. Nasuada đã mang thứ này kể từ ngày nàng và chiến tướng Fadawar dò xét lòng can đảm của nhau qua cuộc Sát hạch Trường kích.

Nasuada đứng nhìn chăm chú vào tấm thảm thêu dài rách rưới với đầy những lỗ thủng trong lúc Farica phục vụ nàng. Rồi nàng lấy can đảm và từ từ nhìn xuống phía dưới. Kể từ ngày chiến thắng trong cuộc sát hạch, nàng đã không muốn nhìn vào những vết thương của mình; chúng quá kinh khủng khi vừa xuất hiện, nàng không thể chịu nổi cảnh tượng ấy cho đến lúc chúng gần lành lặn hẳn.

Những vết sẹo nằm ngổn ngang: sáu vết sẹo lồi dọc theo cánh tay trái, ba vết tại tay phải của nàng. Mỗi vết sẹo dài khoảng mười – mười hai cen-ti-mét và thẳng đuột, không tính đến vệt cuối cùng phía bên phải, nơi nàng đã mất tự chủ và bị một con dao chém vào, để lại một đường dài ngoằn ngoèo gấp đôi số còn lại. Lớp da non xung quanh những vết sẹo có màu hồng và hơi nhăn nhúm, nhưng bản thân vết sẹo lại chỉ nhạt hơn phần còn lại trên cơ thể nàng một chút, và điều này khiến nàng hài lòng. Nasuada từng sợ rằng chúng sẽ trở nên trắng sáng và bóng loáng, khiến chúng dễ gây chú ý hơn. Những vết sẹo lồi lên trên mặt cánh tay tầm nửa cen-ti-met, tạo thành những đường cơ thịt rắn chắc hệt như những cuộn dây thừng được bện vào bên dưới lớp da của nàng.

Nasuada cảm thấy hơi mâu thuẫn về những dấu tích này. Cha từng dạy nàng về những tục lệ của tộc khi nàng còn bé, nhưng nàng đã sống cả đời cùng quân Varden và tộc người lùn. Nàng chỉ được chứng kiến những nghi lễ của các bộ tộc du mục, và chỉ khi có việc bất thường, nàng mới liên hệ đến tôn giáo của họ. Nàng chưa từng mơ tưởng đến việc thuần thục Vũ điệu Trống, cũng như việc tham dự vào lễ Xưng Danh đầy khó khăn, hoặc – đặc biệt là việc này – tham gia vào cuộc Sát hạch Trường kích. Và nàng giờ đây, vẫn còn trẻ đẹp, đã mang chín vết sẹo lớn trên đôi tay. Nàng có thể ra lệnh cho một trong những thầy phù thủy tại Varden xóa chúng đi, đương nhiên, nhưng nếu nàng xóa bỏ những vết sẹo chứng minh nàng chiến thắng trong cuộc Sát hạch Trường kích, thì nàng phải trả giá bằng việc các dân tộc du mục không thừa nhận sự lãnh đạo từ nàng

Nàng vừa hối hận vì đôi tay mình đã không còn mịn màng và tròn trịa và sẽ không bao giờ thu hút ánh nhìn ngưỡng mộ từ cánh đàn ông nữa, vừa tự hào về chúng. Những vết sẹo là một minh chứng cho lòng dũng cảm và sự cống hiến thiết thực của nàng cho quân kháng chiến Varden. Bất kì ai nhìn nàng đều sẽ nhận khí chất ấy, và nàng đã quyết định rằng việc đó hữu ích hơn là bảo tồn vẻ bề ngoài của nàng.

“Chàng nghĩ sao?” nàng hỏi, và đưa tay về hướng vua Orrin, người đứng cạnh khung cửa sổ đang mở tại thư phòng, ông nhìn xuống thành phố với vẻ nghiên cứu.

Orrin xoay người và chau mày lại, đôi mắt ông đen láy bên dưới hàng lông mày hẹp màu nâu. Ông đã đổi từ bộ chiến giáp sang chiếc áo chùng dày màu đỏ và áo choàng bằng lông chồn trắng. “Ta cảm thấy không hài lòng khi nhìn vào chúng.” Ông nói, và tiếp tục nhìn chăm chú xuống thành phố. “Hãy che chúng lại, nó không hợp với phép lịch sự xã hội.”

Nasuada quan sát đôi tay nàng một lúc lâu. “Không, em sẽ không làm thế.” Nàng kéo mạnh dãy đăng ten đính liền một phần với ống tay áo cho thẳng thớm, rồi lệnh Farica lui ra. Nàng sải bước qua tấm thảm lộng lẫy ở giữa căn phòng do người lùn dệt để đến bên cạnh Orrin và cùng ông kiểm tra thành phố bị tàn phá bởi chiến tranh, điều khiến nàng hài lòng hơn hết đó là một trong hai đám cháy dọc theo bức tường phía Tây đã được dập tắt. Nàng chuyển ánh nhìn sang đức vua.

Trong một khoảng thời gian ngắn kể từ khi quân Varden và Surdan bắt đầu phát động tấn công Đế quốc, Nasuada thấy Orrin đã trở nên nghiêm nghị hơn rất nhiều, lòng nhiệt tình và tính cách lập dị vốn có của ông đã bị chôn vùi bởi vẻ ngoài đầy cứng rắn. Thoạt đầu, nàng vui mừng vì sự thay đổi này, vì nàng có thể cảm nhận được sự trưởng thành từ ông, nhưng khi chiến tranh kéo dài, nàng lại nhớ cái cách mà ông hào hứng tranh luận về các vấn đề khoa học tự nhiên, cũng như những tính cách khác của ông. Theo dòng hồi tưởng, nàng chợt nhận ra rằng đó là những tháng ngày tươi đẹp, ngay cả khi đôi lúc nàng cảm thấy chúng làm nàng phiền lòng. Hơn nữa, sự thay đổi này đã biến ông thành một đối thủ nguy hiểm; với tính cách hiện nay của ông, nàng có thể dễ dàng hình dung việc ông đang ngầm thay thế vai trò thủ lĩnh quân Varden của nàng.

Liệu ta có hạnh phúc khi lấy ông ấy? nàng tự hỏi. Orrin trông cũng không đến nỗi tệ. Mũi ông cao và nhỏ nhắn, song cằm ông lại bạnh và miệng ông sắc nét và đầy biểu cảm. Nhiều năm luyện tập võ thuật khiến ông có một thân hình cân đối. Chắc chắn rằng không ai có thể hoài nghi về tài trí của ông, và nhân cách của ông có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nếu ông không có biểu hiện đe dọa đến vị trí của nàng và nền độc lập của Varden, nàng biết rằng nàng sẽ chẳng bao giờ có ý định đối đầu với ông.Liệu người ấy sẽ là một người cha tốt?


Orrin đặt tay ông lên thành đá hẹp và tựa người vào nó. Không nhìn nàng, ông nói: “Nàng phải phá vỡ hiệp ước với tộc Urgal.”


Lời tuyên bố này khiến nàng sửng sốt: “Và tại sao phải thế?”

“Bởi vì chúng đang gây bất lợi cho chúng ta. Những người lẽ ra gia nhập quân kháng chiến nay lại nguyền rủa chúng ta vì hành động liên minh với lũ quái vật và họ từ chối buông vũ khí khi cánh quân đến quê nhà họ. Sự chống cự của Galbatorix dường như hợp lý hơn vì chúng ta liên minh với Urgals. Dân thường không thể hiểu tại sao ta lại hợp tác với chúng. Họ không biết rằng Galbatorix dùng Urgals để tư lợi, cũng như việc lão lừa họ nhằm tấn công Tronjheim bằng lệnh từ Tà Thần. Nàng sẽ không thể khiến một nông dân hiểu được những điều tinh tế này. Họ chỉ biết rằng các sinh vật khiến họ vừa ghét vừa sợ đang trên đường tiến công đến nhà họ , dẫn đầu là một con rồng khổng lồ và một Kỵ sĩ trông giống tiên hơn là giống người.”


“Chúng ta cần sự ủng hộ của tộc Urgal,” Nasuada tiếp tục. “Quân ta đã giảm đi quá nhiều so với lúc ban đầu.”

“Ta không cần bọn chúng đến độ như thế. Nàng đã biết những gì ta vừa nói là đúng; vì sao nàng lại ngăn Urgals tham gia lần công thành Belatona? Vì sao nàng lại ra lệnh cho chúng không được vào thành? Chỉ cách ly chúng khỏi chiến trường thì chưa đủ đâu, Nasuada à. Những lời bàn tán về chúng vẫn sẽ lan ra khắp lục địa. Điều duy nhất nàng có thể làm để cải thiện tình hình là cắt bỏ điều bất hạnh này trước khi chúng gây thêm thiệt hại cho ta.”

“Em không thể.”

Orrin tiến sát nàng, sự giận dữ làm méo mó khuôn mặt ông. “Binh lính ta đang chết vì nàng đã chấp thuận trợ giúp từ Garzhvog. Người của ta, người của nàng, những người tại Đế quốc … chết và bị chôn. Liên minh này không xứng với sự hy sinh của họ, và đối với tính mạng của ta, ta không thể hiểu tại sao nàng lại bảo vệ mối liên hệ này.”

Nàng không thể trụ vững trước ánh mắt của ông; chúng khiến nàng nhớ đến những mặc cảm tội lỗi cùng những lời cáo buộc nặng nề xuất hiện thường xuyên mỗi khi nàng cố thiếp đi. Thay vào đó, nàng vờ như chăm chú nhìn vào cột khói đen đang bốc lên từ một tòa tháp phía cuối thành phố. Chậm rãi mở lời, nàng nói, “Em bảo vệ điều ấy vì em mong rằng việc gìn giữ mối quan hệ với tộc Urgal sẽ cứu được nhiều mạng người hơn… Nếu chúng ta muốn đánh bại Galbatorix–”
Orrin “hừ” một tiếng đầy hoài nghi.

“Điều này không mang lại kết quả cao,” nàng nói, “Em biết. Nhưng chúng ta phải tính đến mọi trường hợp. Nếu chúng ta đánh bại lão, chúng ta sẽ gánh lấy việc khôi phục dân tộc từ lần nội chiến này và gầy dựng một cường quốc mới từ đống tro tàn của Đế quốc. Và quá trình ấy sẽ đảm bảo rằng, sau bao năm chiến trận, hòa bình đã đến. Em sẽ không lật đổ Galbatorix và để tộc Urgal phá bĩnh ngay tại thời điểm chúng ta suy yếu.”

“Có lẽ chúng sẽ làm thế. Trước đây chúng luôn như vậy.”

“Vậy thì, chúng ta có thể làm gì khác hơn?” nàng phản bác, tức giận. “Chúng ta phải cố gắng chế ngự chúng, khiến chúng phụ thuộc vào chúng ta, để chúng không có cơ hội phản bội chúng ta.”
“Ta sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông gầm lên. “Trục xuất chúng. Hủy thỏa thuận giữa nàng và Nar Garzhong và đày hắn cùng bầy đàn của hắn biệt xứ. Nếu chúng ta thắng trận này, thì chúng ta sẽ đàm phán về một hiệp ước mới, vì chúng ta đã ở thế muốn gì được nấy. Hoặc tốt hơn là cử Eragon và Saphira đến dãy Spine với một đạo quân để quét sạch chúng một lần và mãi mãi, là điều mà các Kỵ sĩ nên làm từ hàng thế kỷ trước rồi.”

Nasuada nhìn ông với vẻ bất mãn. “Nếu em cắt đứt thỏa thuận với tộc Urgal, họ sẽ nổi giận và tấn công chúng ta, chúng ta không thể chống chọi với họ và quân Đế quốc cùng lúc được. Để lâm vào tình cảnh ấy là một hành động hết sức điên rồ. Nếu, với trí thông minh của họ, tộc tiên, tộc rồng và các Kỵ sĩ cùng quyết rằng nên chừa cho tộc Urgal một con đường sống – mặc dầu những tộc ấy có thể hủy diệt họ trong chớp mắt – thì ta cũng noi theo gương ấy mà làm. Những tộc ấy hiểu rằng tận diệt tộc Urgal là sai, và chàng cũng nên hiểu là thế.”

“Với trí thông minh của chúng – Hừ ! Cứ y như rằng trí thông minh của chúng có ích lắm! Tốt thôi, chừa vài tên Urgal ra và giết số còn lại, khiến chúng không dám rời ổ trong vòng vài trăm năm nữa.”

Giọng nói đầy đau đớn và những vẻ gượng ép trên mặt ông khiến Nasuada bối rối. Nàng quan sát ông kỹ lưỡng hơn, cố xác định nguồn gốc của phản ứng kịch liệt này. Một vài phút sau, câu trả lời tự hiện ra, như phản ảnh, như tự minh bạch.

“Chàng đã mất ai?” Nàng hỏi.

Nắm tay Orrin vo tròn lại và từ từ, ngập ngừng đặt lên ngưỡng cửa sổ, như thể ông muốn nện một cú cật lực song lại không dám. Ông đánh vào thành cửa hai lần, và nói, “Một người bạn lớn lên cùng ta tại lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ nàng đã gặp cậu ta lần nào. Cậu ta là một trong những trung úy tại kỵ đoàn của ta.”

“Anh ấy chết như thế nào?”

“Như nàng dự đoán thôi. Lúc mọi người vừa đến dãy chuồng ngựa ở cổng thành phía Tây và đang canh chừng không cho chúng quấy phá khi đó một tên trong số chúng lao ra từ cửa ngăn chuồng gần đó và đâm xuyên qua người cậu ấy bằng một cây chĩa. Khi tên đó bị dồn vào góc, hắn thét lên những lời vớ vẩn và vô nghĩa về lũ Urgal và về việc bọn hắn không bao giờ chịu sự chi phối… Điều đó chẳng thể giúp ích được cho hắn ngay cả khi thực sự có. Ta đã kết liễu hắn bằng chính đôi tay này.”

“Em rất tiếc,” Nasuada nói.

Những viên ngọc quý trên vương miện chiếu sáng lấp lánh khi ông gật đầu.

“Dù có đau đớn cách mấy, chàng vẫn không thể để sự đau buồn chi phối quyết định của chàng … Việc ấy rất khó, em biết – em biết chứ - nhưng chàng phải trở nên mạnh mẽ hơn bản thân, vì lợi ích của thần dân.”

“Trở nên mạnh mẽ hơn chính bản thân,” ông nhại lại bằng chất giọng đầy chua chát.

“Vâng. Thần dân đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn những người khác; vì vậy chúng ta phải phấn đấu hết sức để chứng tỏ rằng chúng ta xứng đáng với trọng trách ấy… Tộc Urgal đã giết cha em, chàng nên nhớ điều đó, nhưng em vẫn nén mình để chúng trở thành đồng minh với Varden đấy thôi. Em sẽ không cho phép bất cứ điều gì gây cản trở cho việc họ và quân đội của chúng ta trở thành một thể thống nhất, bất chấp việc ấy có gây đau khổ đến đâu.” Nàng nâng đôi tay lên, bày những vết sẹo ra trước mặt ông lần nữa.

“Thế, đó chính là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không cắt đứt với lũ Urgal?”

“Không.”

Orrin chấp nhận việc này với thái độ bình tĩnh đến mức nó khiến nàng lo lắng. Rồi ông ghịt chặt mảnh nhung bằng cả hai tay và tiếp tục quan sát thành phố. Trên các ngón tay của ông là bốn chiếc nhẫn, một trong số đó là chiếc ấn hoàng gia của Surda được khắc trên mặt thạch anh tím: một con nai có gạc sừng với những nhánh tầm gửi đâm vào chân tạo thành nhiều vết thương nó đứng trên một chiếc đàn hạc và đối diện là hình ảnh một pháo đài vững chắc.
“Chí ít,” Nasuada nói, “quân chúng ta vẫn chưa đụng độ những đội lính vô cảm.”

“Ý nàng là lũ xác sống biết cười,” Orrin lầm bầm, sử dụng thuật ngữ khá thông dụng trong quân Varden. “À, và Murtagh hay Thorn, những người này làm ta băn khoăn.”

Sau một khoảng trầm mặc, nàng nói, “Thí nghiệm lúc tối qua của chàng ra sao? Có thành công không?”

“Ta quá mệt mỏi để có thể xem xét nó. Thay vào đó, ta đã ngủ thiếp đi.”

“À.”

Vài phút sau, bằng một sự đồng ý ngầm, họ cùng tiến đến bàn làm việc được dựng sát vách lâu đài. Hàng núi giấy cứng, thẻ gỗ và cuộn giấy da chất đầy cả mặt bàn. Nasuada quan sát tổng quát khung cảnh dễ làm nản lòng này và thở dài. Chỉ nửa tiếng trước, nơi này không có gì, nó đã từng được cô hầu của nàng dọn dẹp sạch sẽ.

Nàng tập trung lên đoạn báo cáo quá-ư-là-quen-thuộc, một danh sách ước lượng số tù binh mà quân Varden bắt sống trong đợt công thành Belatona, với những cái tên của các nhân vật quan trọng được gạch dưới bằng mực đỏ. Nàng và Orrin đã thảo luận về việc ấy từ khi Farica trở lại để tháo dải băng cho nàng.

“Em chẳng thể nghĩ được cách thoát khỏi mớ bòng bong này,” nàng thừa nhận.

“Ta có thể tuyển thêm lính gác từ những người này. Như thế, ta sẽ không cần phải lưu lại quá nhiều binh chính quy.”

Nàng chọn ra một bản báo cáo. “Có thể, nhưng sẽ rất khó để ta tuyển được người phù hợp, và các thầy phù thủy đang trong nguy cơ làm việc quá sức …”

“Du Vrangr Gata đã tìm ra phương thức phá vỡ lời tuyên thệ bằng cổ ngữ chưa?” Ngay khi Nasuada đưa ra đáp án tiêu cực, ông tiếp tục hỏi, “Họ đã thật sự bắt tay tìm kiếm chưa?”

“Không có tin tức thiết thực. Em cũng đã hỏi tộc tiên, nhưng họ cũng chẳng gặp may suốt bao năm qua hơn chúng ta trong vài ngày vừa rồi đâu.”

“Nếu vấn đề này không được giải quyết sớm, ta có thể phải trả giá bằng chiến tranh”, Orrin nói, “Chính vấn đề này, ngay tại đây.”
Nàng day day hai bên thái dương. “Em biết”. Trước khi rời khỏi sự bảo hộ của tộc người lùn tại Farthen Dûr và Tronjheim, nàng đã cố lường trước mọi thách thức mà Varden sẽ đối mặt khi giành thế chủ động. Tuy nhiên, yếu tố đang đe dọa họ lại khiến nàng hoàn toàn ngạc nhiên.


Vấn đề đầu tiên đã sáng tỏ trận chiến trên Cánh đồng Cháy kết thúc, khi họ nhận ra rằng toàn bộ các tướng lĩnh trong quân đoàn của Galbatorix, và phần lớn các binh lính của lão đều bị ép phải thề nguyền sự trung thành của họ với Galbatorix và Đế quốc. Nàng và Orrin nhanh chóng nhận ra rằng hai người không thể tin vào số người này một khi tên bạo chúa cùng Đế quốc của hắn còn tồn tại, và có lẽ ngay cả khi cả hai điều kiện này biến mất. Hệ quả là những người trong số ấy không được phép gia nhập quân đội Varden, dù họ có muốn cách mấy đi chăng nữa vì phần đông đều e ngại sự chi phối của lời thề.

Nasuada chưa toàn tâm chú ý đến tình hình vào thời điểm ấy. Tù binh là minh chứng cho chiến tranh, và nàng đã cùng vua Orrin định sẵn sẽ đưa họ về Surda giam giữ, nơi các binh lính bị bắt sẽ phải tham gia xây dựng đường sá, khai thác đá, đào lũy và các công việc nặng nhọc khác.

Mãi cho đến khi quân Varden nắm quyền tại thành phố Feinster, nàng mới có thể nhìn thấu toàn bộ sự tình.

Gián điệp của Galbatorix không chỉ ép buộc các binh sĩ phải thề nguyền lời thề trung thành, mà còn cho những nhà quý tộc, cho những quan chức hiện đang phục vụ cho phe đồng minh, cho những cá nhân riêng lẻ nằm rải rác trong thành phố - với số lượng người bị tình nghi nhiều đến nỗi nàng chắc rằng quân Varden không thể nhận biết hết được.
Có nhiều người mà họ đã nhận ra, tuy vậy, vẫn phải cố gắng giữ nguyên và không dám truy ra, vì sợ rằng những người đó sẽ cố gắng lật đổ Varden.

Tìm những người đáng tin cậy, rồi đến những người muốn gia nhập quân kháng chiến khó khăn hơn Nasuada dự đoán rất nhiều.

Bởi vì cần phải lưu giữ toàn bộ những người cần thiết, nàng không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc để lại gấp đôi số lính chính quy tại Feinster so với dự tính ban đầu. Và, với số lượng tù binh quá đông, thành phố ngày càng tê liệt, ép nàng phải hướng nguồn cung cấp từ căn cứ chính của Varden đến đó nhằm tránh nạn đói hoành hành. Họ không thể duy trì trạng thái này được lâu, và tình huống càng tệ hơn khi họ cũng đang khống chế thành Belatona.

“Thật đáng tiếc vì tộc người lùn chưa trở về,” Orrin nói, “Chúng ta có thể trông cậy vào họ.”

Nasuada đồng tình. Hiện nay chỉ có vài trăm người lùn trong quân ngũ của Varden; phần lớn trong số họ đã trở về Farthen Dûr để dự lễ chôn cất vị vua quá cố Hrothgar, và đợi tộc trưởng của các bộ lạc chọn ra người kế vị, việc mà nàng đã nguyền rủa không biết bao nhiêu lần. Nàng đã cố thuyết phục phía người lùn hãy bổ nhiệm một người đại diện tại thời buổi chiến tranh, nhưng họ lại cứng đầu như đá và khăng khăng quyết rằng sẽ tiếp tục các nghi lễ cổ truyền, mặc dầu việc ấy đồng nghĩa với việc bỏ rơi các chiến dịch còn dang dở của quân Varden. Trong loạt sự kiện ấy, tộc người lùn cuối cùng đã chọn ra được vị vua mới – cháu trai của Hrothgar, Orik – và đã xuất chinh từ dãy núi Beor xa xôi để tái nhập với quân Varden. Ngay tại thời điểm này, họ đang hành quân xuôi theo những cánh đồng rộng thênh thang tại phía Bắc Surda, đâu đó ở giữa hồ Tüdosten và sông Jiet.

Nasuada tự hỏi rằng liệu họ có thể chiến đấu cho đến khi những người lùn đến đây không. Như một luật bất thành văn, tộc người lùn vốn khỏe mạnh hơn loài người, nhưng họ đã bỏ ra hai tháng để cuốc bộ, và việc ấy có thể gây mệt mỏi cho cả những giống sinh vật khỏe mạnh nhất. Ắt hẳn họ đã phát ngấy vì phải trông thấy cùng một khung cảnh trong khoảng thời gian dài, nàng nghĩ thế.

“Chúng ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi ta chiếm cứ Dras-Leona …” nàng lắc đầu.

Một ý nghĩa bất ngờ xuất hiện, Orrin nói, “Nếu chúng ta bỏ qua Dras-Leona thì sao?” Ông mày mò trong chồng giấy da trên bàn cho đến khi tìm được một bản đồ vẽ tay to tướng về Alagaësia của người lùn, trải dài nó trên các bản báo cáo về vấn đề hành chính. Địa hình nhấp nhô khiến cả vùng đất có hơi bất thường: một vài đỉnh nhọn nhô lên tại phía Tây rừng Du Weldenvarden; vết trũng xuống tại dãy núi Beor; những hẻm núi và khe núi xuyên suốt sa mạc Hadarac; những dãy đá chảy dài xuyên suốt từ phần xa nhất ở hướng Bắc của dãy Spine, tạo ra nhiều gợn lăn tăn bên dưới. “Nhìn này.” Với ngón giữa, ông vạch ra một đường từ Belatona đến thủ đô của Đế quốc, Urû’baen. “Nếu chúng ta đánh thẳng vào đây, chúng ta sẽ chẳng cần phải đến gần Dras-Leona. Sẽ có chút khó khăn khi phải vượt một quãng dài như vậy, nhưng chúng ta sẽ làm được.”

Nasuada không cần phải cân nhắc lời đề nghị của ông; nàng đã tính đến đến khả năng này từ lâu. “Rủi ro quá lớn. Galbatorix vẫn có thể tấn công chúng ta bằng số binh lính đang phòng thủ tại Dras-Leona với số lượng không nhỏ, nếu gián điệp của ta đủ độ tín nhiệm thì ta sẽ bị kẹt vào thế gọng kìm từ hai phía. Em không biết cách nào để thua nhanh hơn như thế trong một trận chiến, hay một chiến trường. Không, chúng ta bắt buộc phải chiếm Dras-Leona.”

Orrin thừa nhận điểm này bằng cách hơi nghiêng đầu xuống. “Thế thì chúng ta cần triệu binh từ Aroughs. Chúng ta cần tất cả các chiến binh nếu muốn tiếp tục.”

“Em biết. Em đã dự trù để chắc rằng cuộc vây hãm sẽ hoàn tất trước khi hết tuần.”

“Không phái Eragon đến đó, ta mong là thế.”

“Không, em có kế hoạch khác.”

“Tốt. Và trong khoảng thời gian này? Chúng ta sẽ làm gì với số tù nhân?”

“Như chúng ta đã làm khi trước: canh phòng, tập trung tụ điểm và tuần tra. Có lẽ ta nên yểm chú hạn chế cử động để không cần phải trông chừng chúng từng li từng tí. Em không nghĩ ra hướng giải quyết khác, trừ việc xử tử hàng loạt, và em thà –” Nàng cố mường tượng những điều nàng sẽ không thực hiện chỉ để đánh bại Galbatorix. “Em thà không cần dùng cách thức tàn nhẫn như thế.”


“Tốt.” Orrin cúi xuống bản đồ, co vai lại như một con kền kền khi ông nhìn chăm chú vào những nét chữ nguệch ngoạc đã mờ đi khi nối ba đỉnh Belatona, Dras-Leona và Urû’baen với nhau.

Và ông giữ nguyên tư thế ấy cho đến khi Nasuada lên tiếng, “Còn việc gì khác mà chúng ta phải duyệt nữa không? Jörmundur đang chờ lệnh và Hội đồng Bô lão gửi thỉnh cầu để được yết kiến em.”

“Ta lo.”

“Về chuyện gì?”

Orrin đặt một tay lên bản đồ. “Rằng việc này đã vượt quá tưởng tượng từ lúc bắt đầu… Rằng lực lượng của ta và của các đồng minh đã bị phân tán đến mức đáng sợ, và nếu Galbatorix đích thân tham dự cuộc chiến này, lão có thể tiêu diệt chúng ta dễ như khi Eragon và Saphira giết một bầy dê. Toàn bộ các chiến lược của chúng ta đều phụ thuộc vào việc xoay sở sao cho Eragon, Saphira cùng các phù thủy phe chúng ta cùng lúc đối mặt với Galbatorix. Hiện trong quân chúng ta chỉ có một số lượng nhỏ các phù thủy có thể huy động, và chúng ta sẽ không thể tập hợp tất cả bọn họ cho đến khi chúng ta đến được Urû’baen và hợp lực với nữ hoàng Islanzadí và quân đội của bà. Cho đến lúc ấy, chúng ta vẫn dễ bị tập kích đến mức đáng thương. Chúng ta vẫn đang mạo hiểm để đánh cược rằng sự khinh người của Galbatorix sẽ khiến lão ở thế bị động, tới lúc cái bẫy của chúng ta ập xuống đầu lão.”

Nasuada thấu hiểu mối lo của ông. Tuy nhiên, vực dậy lòng tự tin của Orrin quan trọng hơn là tỏ ra lo ngại cùng với ông, vì nếu ông trở nên bạc nhược, điều ấy sẽ làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của ông và làm giảm sĩ khí của binh lính. “Chúng ta hoàn toàn không thể phòng thủ,” nàng nói, “Không làm gì nữa. Dauthaert hiện nằm trong tay ta, và với thứ vũ khí ấy, em nghĩ chúng ta có thể hạ gục Galbatorix và Shruikan, khi chúng có thể gia nhập trận trấn thành Urû’baen.”

“Có lẽ thế.”

“Hơn nữa, lo lắng suông chẳng giúp ích được gì. Chúng ta không thể thúc giục người lùn đi nhanh hơn, hay đẩy mạnh quá trình tiến tới Urû’baen, hay cúp đuôi bỏ chạy. Vì vậy em sẽ không để tình huống hiện tại ảnh hưởng quá đáng đến chàng đâu. Tất cả những gì chúng ta cần làm là phấn đấu để đối mặt với số phận, dù bất cứ điều gì đang chờ chúng ta đi chăng nữa. Nói cách khác là em sẽ không cho phép những hành động của Galbatorix làm bấn loạn tâm trí. Em không chấp nhận việc bị quyền lực của lão chi phối như thế.”
Chương trình ủng hộ thương hiệu Việt của Tàng Thư Viện:

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK