Lần đầu tiên nhìn nàng ở khoảng cách gần, Vô Danh biết rõ, cả đời mình đã gắn liền với cô gái trước mặt này. Ông ngượng ngùng cảm ơn nàng vì những lần nàng cho Bob ăn, nàng chỉ cười và đáp không có chi. Nụ cười đó, giống như mặt trời hạ mình trên những tán lá, khe khẽ âu yếm hồn Vô Danh những tia nắng đầu mùa. Như được tiếp thêm sức mạnh, Vô Danh đã hỏi nàng rằng liệu ông có thể đến nhà nàng vào lần tới không. Nàng đáp vâng, và cũng như bao chuyện tình đẹp đẽ đã có mặt trên đời, hai người đã được gắn kết với nhau bằng một cuộc hôn nhân sau đó, cũng như cuộc chia ly đã được định sẵn bởi chiến tranh cận kề.
Ít lâu sau đó, Vô Danh và người ông yêu đã quyết định tiến tới hôn nhân. Lễ cưới được tổ chức khá nhỏ, chẳng có mấy mặt khách mời cùng họ hàng đôi bên. Song, Vô Danh luôn cố gắng để tạo ra những điều tuyệt vời nhất cho vợ mình. Ông đã trang trí lễ cưới nhỏ của mình thành một ngôi vườn cổ tích, đầy hoa tím mộng mơ và hàng chục dãy bóng bay đủ màu. Ông biết, đó chưa là gì so với thân phận của nàng, nhưng là tất cả những gì ông có thể làm.
Lễ cưới xong xuôi, cả hai nhanh chóng tiến vào cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và có con không lâu sau đó. Tin mừng đến với hai người vào một ngày nắng ấm, khi người vợ bất chợt bị cơn ốm nghén tìm đến.
Tuy nhiên, niềm vui chưa đến được bao lâu thì nỗi buồn lập tức ập đến. Đất nước gặp chiến tranh, chính phủ bắt buộc phải đưa ra thông báo về việc kêu gọi các thanh niên trai tráng đi lính, hòng phụ giúp đất nước vượt qua cơn hoạn nạn chiến tranh. Ban đầu, ông không muốn đi, vì ông xót vợ mình và đứa con vẫn còn ở trong bụng.
Ông muốn bản thân mình được chứng kiến cảnh con chào đời cũng như cất tiếng gọi cha đầu tiên. Ấy mà, vợ ông cứ bên cạnh khuyên can, thúc giục ông mau đi lính. Ông biết, vợ ông không muốn ông chịu cảnh dân làng bàn tán xôn xao, chứ thật ra nàng nào muốn ông xông vào đường chết.
Nghe lời vợ, ông lên đường đi lính. Cứ ngỡ đó chỉ là một cuộc chiến kéo dài tầm dăm năm, mà không, nó kéo dài tưởng chừng như vô hạn. Chiến tranh đã kéo mất phần hồn ông đi, làm nó trở nên héo hon, gầy guộc vô cùng. Ông đau đớn trước cái chết của những người bạn thân thương, những người mới hôm nào còn khoác tay trò chuyện, nay đã hồn lìa khỏi xác, thân xác đứt lìa. Ông đau lắm! Nước mắt ông cạn dần bởi thời cuộc, để rồi, sự khát máu đã trỗi dậy trong tâm hồn ảm đạm thương đau.
Ông bắt đầu học cách bắn tỉa, giết người thành thạo hơn. Ông không còn để đồng đội của mình phải chết nữa, bằng cách hi sinh một gia đình khác đang ngóng trông người chồng trở về. Ông trở thành sát nhân trong chính đại đội của mình. Họ tôn vinh ông, đem ông trở thành biểu tượng của chiến thắng. Nhưng chỉ ông biết rõ, lòng mình phải đớn đau biết chừng nào khi giết chết một người cha, một người chồng đến từ một gia đình khác. Họ có thể là kẻ địch của ông, nhưng họ chỉ đang đấu tranh vì đất nước của họ, vì hòa bình cũng như vinh quang đã xa tận phương nào.
Ông bắt đầu bị trầm cảm. Đầu óc ông bị quay cuồng bởi tội lỗi, nhịp đập con tim càng lúc càng tăng dần bởi áp lực giết chóc. Máu càng đậm, đầu ông càng nhức nhói. Có những đêm giật mình tỉnh giấc, thấy bên cạnh chỉ có một màu đỏ kịt, phổi ông như bị siết lại, khiến cho hơi thở không cách nào chui tọt ra khỏi mũi.
Ông xin nghỉ vài hôm để về quê. Đó là quyết định của ông sau nhiều đêm thức trắng. Đội trưởng thấy mặt mũi ông xanh xao gầy gò, nên quyết định để ông về thăm vợ. Ngoài ra, ngài còn đặc biệt dặn dò ông chú ý sức khỏe, vì ông là vinh quang của đội, là chiến thắng của toàn quân.
Ngày ông về quê, ông đã tưởng tượng hàng trăm lần cảnh vợ ôm con nhào vào lòng mình. Ông dường như cảm thấy được hơi ấm của cả hai đang đọng tên gò má, và tiếng đứa trẻ đang ríu rít gọi ông là cha.
“Ừ, bé bỏng của cha.” Ông còn nhớ bản thân mình đã vui đến nhường nào khi nghĩ về cảnh tượng đó. Hai mắt ông híp lại trong khi khóe miệng thì nhếch lên. Bầu trời sau lưng hiện lên từng đợt nắng sáng, mây xanh kéo theo gió xuân tràn về nông trại. Tiếng chó sủa inh ỏi khắp vùng, tiếng trẻ con đang rủ nhau chơi trốn tìm. Ông bị lạc trong vùng yên bình đó một chốc, rồi tự ngẫm về đời mình.
Đây có phải hạnh phúc mà ông luôn tìm kiếm?
Hoa ngoài vườn đã nở, bướm đã đến mùa thoát kén. Ông về nhà, chào đón ông chỉ là căn nhà lạnh lẽo không một bóng người. Cõi lòng ông như lạc vào chốn hư vô, thước phim kỷ ức đến khúc này chợt nhòa đi, hai màu trắng đen đan xen, thế giới của ông sau đó chỉ còn một màu đơn sắc.
Hình ảnh đứa con trai đang mỉm cười nắm chặt tay vợ vẫn còn ở đó. Khung tranh lạnh toát, còn người trong hình vẫn rạng rỡ biết bao.
Hỏi thăm dân làng, ông mới biết được đợt đó vùng này bị giặc đến cướp bóc. Vợ ông vì bảo vệ con trai mà bị chúng giết chết, còn đứa con thì may mắn sống sót, lại vì chạy trốn mà lạc đến nơi nào. Họ đã thay ông mai táng cho vợ, còn kêu gọi vài người đàn ông trong làng lên rừng kiếm thằng bé, song, chẳng có tin tức gì. Ông hỏi sao mọi người không gửi thư cho ông, nhưng họ nói rằng họ đã gửi liên tục suốt mấy tháng ròng, lại chẳng nhận được hồi đáp của ông.
Cuối cùng, ông biết rõ ánh mắt cuối cùng của đội trưởng khi đó là có ý gì. Đó là ân hận xen lẫn tội lỗi khi đã giấu ông chuyện quan trọng này.
Tất cả chỉ vì vinh quang của đất nước. Ông lẩm bẩm, nước mắt lã chã rơi.
Đó là lần cuối cùng trong đời người ta thấy ông còn sống ở vùng này, và được chứng kiến được nước mắt rơi khỏi hốc mắt của người lính giỏi giang ấy.
Ít lâu sau đó, Vô Danh và người ông yêu đã quyết định tiến tới hôn nhân. Lễ cưới được tổ chức khá nhỏ, chẳng có mấy mặt khách mời cùng họ hàng đôi bên. Song, Vô Danh luôn cố gắng để tạo ra những điều tuyệt vời nhất cho vợ mình. Ông đã trang trí lễ cưới nhỏ của mình thành một ngôi vườn cổ tích, đầy hoa tím mộng mơ và hàng chục dãy bóng bay đủ màu. Ông biết, đó chưa là gì so với thân phận của nàng, nhưng là tất cả những gì ông có thể làm.
Lễ cưới xong xuôi, cả hai nhanh chóng tiến vào cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và có con không lâu sau đó. Tin mừng đến với hai người vào một ngày nắng ấm, khi người vợ bất chợt bị cơn ốm nghén tìm đến.
Tuy nhiên, niềm vui chưa đến được bao lâu thì nỗi buồn lập tức ập đến. Đất nước gặp chiến tranh, chính phủ bắt buộc phải đưa ra thông báo về việc kêu gọi các thanh niên trai tráng đi lính, hòng phụ giúp đất nước vượt qua cơn hoạn nạn chiến tranh. Ban đầu, ông không muốn đi, vì ông xót vợ mình và đứa con vẫn còn ở trong bụng.
Ông muốn bản thân mình được chứng kiến cảnh con chào đời cũng như cất tiếng gọi cha đầu tiên. Ấy mà, vợ ông cứ bên cạnh khuyên can, thúc giục ông mau đi lính. Ông biết, vợ ông không muốn ông chịu cảnh dân làng bàn tán xôn xao, chứ thật ra nàng nào muốn ông xông vào đường chết.
Nghe lời vợ, ông lên đường đi lính. Cứ ngỡ đó chỉ là một cuộc chiến kéo dài tầm dăm năm, mà không, nó kéo dài tưởng chừng như vô hạn. Chiến tranh đã kéo mất phần hồn ông đi, làm nó trở nên héo hon, gầy guộc vô cùng. Ông đau đớn trước cái chết của những người bạn thân thương, những người mới hôm nào còn khoác tay trò chuyện, nay đã hồn lìa khỏi xác, thân xác đứt lìa. Ông đau lắm! Nước mắt ông cạn dần bởi thời cuộc, để rồi, sự khát máu đã trỗi dậy trong tâm hồn ảm đạm thương đau.
Ông bắt đầu học cách bắn tỉa, giết người thành thạo hơn. Ông không còn để đồng đội của mình phải chết nữa, bằng cách hi sinh một gia đình khác đang ngóng trông người chồng trở về. Ông trở thành sát nhân trong chính đại đội của mình. Họ tôn vinh ông, đem ông trở thành biểu tượng của chiến thắng. Nhưng chỉ ông biết rõ, lòng mình phải đớn đau biết chừng nào khi giết chết một người cha, một người chồng đến từ một gia đình khác. Họ có thể là kẻ địch của ông, nhưng họ chỉ đang đấu tranh vì đất nước của họ, vì hòa bình cũng như vinh quang đã xa tận phương nào.
Ông bắt đầu bị trầm cảm. Đầu óc ông bị quay cuồng bởi tội lỗi, nhịp đập con tim càng lúc càng tăng dần bởi áp lực giết chóc. Máu càng đậm, đầu ông càng nhức nhói. Có những đêm giật mình tỉnh giấc, thấy bên cạnh chỉ có một màu đỏ kịt, phổi ông như bị siết lại, khiến cho hơi thở không cách nào chui tọt ra khỏi mũi.
Ông xin nghỉ vài hôm để về quê. Đó là quyết định của ông sau nhiều đêm thức trắng. Đội trưởng thấy mặt mũi ông xanh xao gầy gò, nên quyết định để ông về thăm vợ. Ngoài ra, ngài còn đặc biệt dặn dò ông chú ý sức khỏe, vì ông là vinh quang của đội, là chiến thắng của toàn quân.
Ngày ông về quê, ông đã tưởng tượng hàng trăm lần cảnh vợ ôm con nhào vào lòng mình. Ông dường như cảm thấy được hơi ấm của cả hai đang đọng tên gò má, và tiếng đứa trẻ đang ríu rít gọi ông là cha.
“Ừ, bé bỏng của cha.” Ông còn nhớ bản thân mình đã vui đến nhường nào khi nghĩ về cảnh tượng đó. Hai mắt ông híp lại trong khi khóe miệng thì nhếch lên. Bầu trời sau lưng hiện lên từng đợt nắng sáng, mây xanh kéo theo gió xuân tràn về nông trại. Tiếng chó sủa inh ỏi khắp vùng, tiếng trẻ con đang rủ nhau chơi trốn tìm. Ông bị lạc trong vùng yên bình đó một chốc, rồi tự ngẫm về đời mình.
Đây có phải hạnh phúc mà ông luôn tìm kiếm?
Hoa ngoài vườn đã nở, bướm đã đến mùa thoát kén. Ông về nhà, chào đón ông chỉ là căn nhà lạnh lẽo không một bóng người. Cõi lòng ông như lạc vào chốn hư vô, thước phim kỷ ức đến khúc này chợt nhòa đi, hai màu trắng đen đan xen, thế giới của ông sau đó chỉ còn một màu đơn sắc.
Hình ảnh đứa con trai đang mỉm cười nắm chặt tay vợ vẫn còn ở đó. Khung tranh lạnh toát, còn người trong hình vẫn rạng rỡ biết bao.
Hỏi thăm dân làng, ông mới biết được đợt đó vùng này bị giặc đến cướp bóc. Vợ ông vì bảo vệ con trai mà bị chúng giết chết, còn đứa con thì may mắn sống sót, lại vì chạy trốn mà lạc đến nơi nào. Họ đã thay ông mai táng cho vợ, còn kêu gọi vài người đàn ông trong làng lên rừng kiếm thằng bé, song, chẳng có tin tức gì. Ông hỏi sao mọi người không gửi thư cho ông, nhưng họ nói rằng họ đã gửi liên tục suốt mấy tháng ròng, lại chẳng nhận được hồi đáp của ông.
Cuối cùng, ông biết rõ ánh mắt cuối cùng của đội trưởng khi đó là có ý gì. Đó là ân hận xen lẫn tội lỗi khi đã giấu ông chuyện quan trọng này.
Tất cả chỉ vì vinh quang của đất nước. Ông lẩm bẩm, nước mắt lã chã rơi.
Đó là lần cuối cùng trong đời người ta thấy ông còn sống ở vùng này, và được chứng kiến được nước mắt rơi khỏi hốc mắt của người lính giỏi giang ấy.