“Đúng rồi, anh Ruộng, chúng ta vẫn gặp nhiều khó khăn khi chế tạo liên châu sao? ” Minh xoay người hỏi.
“Còn, rất nhiều.” Âu Ruộng hơi nhớ lại, lắc đầu than vãn:
“Lạc quân, nỏ liên châu tuy nhiên có uy lực kinh người nhưng lại đòi hỏi quá cao, chế tạo quá khó khăn đi. Cho dù không nói đến chế tạo thân nỏ cần nguyên liệu quá khó tìm, ngay cả thứ dễ tạo nhất là hộp tên vốn đã tốn nhiều công đoạn lại yêu cầu độ tỉ mỉ quá cao, Khí thôn tuy có nhiều thợ giỏi vẫn không thể nào sản xuất kịp…”
“Ài…”
Khải Minh thở dài, trong lòng sớm đã có chuẩn bị cho việc này nhưng vẫn thấy khá tiếc nuối, quả thật dù có đem theo chút hiểu biết nhỏ nhoi của hiện đại về đây cũng khó lòng giúp hắn hoàn thành nguyện vọng giải cứu dân tộc của mình một cách dễ dàng. Tất cả đều vì trình độ khoa học kỹ thuật chưa cho phép.
Liên châu, tên gọi có nghĩa là bắn liên tục, thật ra theo những gì Khải Minh nhớ loáng thoáng trong khi tiếp nhận “Thuận Thiên”, liên châu trong tay quân Việt ngày ấy chỉ là những trương nỏ có kích cỡ vượt trội so với những loại còn lại, mỗi khi bóp lẫy có thể bắn ra nhiều tên hơn bình thường thôi. Thế nhưng độ chính xác cùng tầm xa của chúng là hết sức hạn chế, cho dù người Việt xưa có tìm cách tăng mạnh lực sát thương của chúng bằng những mũi tên ba khía, lực đẩy của nỏ cũng không đủ để xạ thủ ngắm bắn tới tường thành cao được. Chẳng phải vì vậy mà An Dương Vương chỉ dùng nỏ để thủ thành, nếu không chắc hẳn Triệu Đà đã khó có khả năng giữ được nước Nam Việt nhỏ nhoi của mình.
Thứ nỏ này tuy lợi hại vào lúc bấy giờ, thế nhưng sau khi Trọng Thủy lấy được lẫy nỏ về nghiên cứu, liên châu đã không còn xa lạ gì với giặc nữa.
Thậm chí, trong quân đội nhà Hán đã có không ít xe nỏ, nỏ tay có thể bắn nhiều mũi tên, chính chúng là thứ đã góp phần gần như hủy diệt toàn bộ quân Nga Sơn.
Như vậy, quân Lĩnh Nam nếu muốn chống lại giặc Hán, điều trọng yếu nhất là phải có thứ vũ khí mạnh mẽ hơn, tân tiến hơn.
Lại nói, tuy kiếp trước Khải Minh chỉ là một tên tay mơ, thế nhưng có một thứ cơ bản hắn vẫn biết. Về sau, nỏ sẽ bị thay thế bởi súng ống, mà súng lợi hại ở chỗ chúng có thể bắn nhanh, bắn liên tục nhờ cơ chế phát đạn và băng đạn. Cơ chế bắn khiến đạn bay nhanh hơn, xa hơn, lại có thể tạo lực xoáy khiến viên đạn mang tính xuyên thấu và lực sát thương mạnh mẽ. Còn băng đạn khiến súng có thể bắn liên tục mà không còn phải vừa bắn, vừa nạp như trước nữa.
Cơ chế phát đạn bằng áp suất, bằng thuốc súng gì đó… Khải Minh đương nhiên là không biết, ngay cả việc đào đâu ra thuốc nổ để xài đối với hắn cũng là thứ hết sức khó khăn. Thế nhưng, băng đạn đính kèm, hay hộp tên, theo hắn là hoàn toàn có thể làm được.
Và vì thế, Linh Quang Kim Trảo thần nỏ phiên bản cải tiến đã ra đời. Theo gợi ý của Minh, ngay từ ngày đầu Âu Ruộng dẫn người xuôi nam, Khí Thôn đã không ngừng thử nghiệm, nghiên cứu cách chế tạo hộp tên cùng cách thức phát xạ mới cho nỏ. Kết quả ban đầu chính là loạt liên châu nỏ lần này, chúng có thể bắn xa hơn cường nỏ nhà Hán một chút ( tầm sát thương chuẩn một trăm bộ so với tầm tám mươi bộ của cường nỏ nhà Hán), bắn được một lúc bảy mũi tên, mà quan trọng nhất là Nỏ Liên châu trong tay Lĩnh Nam quân có thể nói đã hoàn toàn khác hẳn với các loại nỏ bình thường.
Không chỉ chúng lớn hơn về kích cỡ, bề ngang to hơn để có đủ chỗ cho bảy mũi tên có thể xếp được cùng với bảy cái rãnh để đinh hướng mũi tên bay đi, mà cánh cung của nỏ cũng đã được dời về giữa thân. Cây nỏ có hai hệ thống dây cung, một được gắn lên trên, khiến nỏ sử dụng như các loại nỏ thường, một loại khác thì được thiết kế nằm ở trong thân nỏ, được liên kết với một hệ thống cơ quan khá phức tạp. Hệ thống này được nối thẳng từ lỗ bắn ra đến tận phía sau nỏ, nơi có sẵn vị trí để cung thủ lắp hộp tên vào.
Mà hộp tên này gồm bảy mũi tên được xếp liền kề nhau theo hàng ngang, thân tên đè lên một cái móc, khóa chặt chúng với hệ thống dây gân nơi đáy hộp. Khi cung thủ gắn hộp tên này vào vị trí sau thân nỏ, móc nối sẽ tác động đến hệ thống dây bên trong thân, tự động kéo tên vào vị trí sẵn sàng chờ đợi cung thủ bóp lẫy. Sau khi bắn xong, nỏ dây sẽ được hệ thống kéo trả về sau, đẩy hộp tên rỗng đã không còn được níu lại bởi mũi tên văng ra sau, để chỗ cho hộp tên khác thế vào. Vì thế nếu có hộp tên khác đã lên tên sẵn sàng, nỏ liên châu có thể bắn được hai lần liên tiếp như hôm biểu diễn cho Vua và mọi người xem.
Đương nhiên là liên châu nỏ cũng có nhiều chỗ hỏng lắm. Đầu tiên phải nói chính là việc chế tạo nỏ hết sức phức tạp. Để chịu đựng được lực bắn xa, sức xuyên thấu mạnh cùng với lực phản chấn khổng lồ từ bảy mũi tên mang lại, thân nỏ đã không thể nào dùng gỗ được nữa, trong thời buổi luyện kim còn sơ khai như hiện giờ, thân nỏ chỉ có thể dùng hợp kim đồng đen mà thôi. Mà phương pháp luyện đồng đen vô cùng phức tạp, lại rất cứng rắn, vì thế việc gia công chế tạo là rất mất thời gian cùng công sức.
Hạn chế tiếp theo chính là bộ phận hộp tên của nỏ. Hộp tên của nỏ vừa thô vừa nặng, lại chiếm kích cỡ khá lớn khiến cho mỗi người chỉ có thể mang theo bên người hai hộp mà thôi, một hộp lắp vào nỏ, hộp kia đeo bên hông. Đã vậy công đoạn lắp tên vào hộp lại khá lằng nhằng, cho dù một tên cung tiễn thủ tháo vát nhất cũng phải tốn không ít thời gian mới có thể lên tên hoàn chỉnh. Vì thế mà nỏ liên châu chỉ có thể bắn hai vòng tên nhanh thôi, sau đó hoặc phải đợi nạp tên cho hộp tên, hoặc chuyển sang bắn như nỏ thường. Đương nhiên Khải Minh có thể chia ra một tốp quân sĩ luân phiên nhau nạp tên cho các băng đạn riêng lẻ, nhờ đó khiến nỏ liên châu có thể phát huy uy lực kinh người, xoay vòng bắn liên tục. Thế nhưng do kết cấu cùng hạn chế kỹ thuật, nỏ chỉ có thể bắn liên tục năm lần, sau đó nếu còn cố bắn sẽ bị hư hỏng mất, mà một cây nỏ thế này tốn rất nhiều công phu, giá trị của chúng chẳng cần suy tính cũng có thể biết được, do đó Khải Minh chắc chắn sẽ không điên rồ đi tiêu đốt tiền tài cho việc này.
Đó là còn chưa tính tới do kết cấu nỏ phức tạp dẫn đến việc bảo dưỡng, sửa chữa nỏ cũng rất khó khăn. Dây nỏ thứ hai giấu bên trong thân càng rất khó xem xét nếu bị hư hỏng. Hơn nữa lực phản chấn khi bắn bảy mũi tên cùng trọng lượng đồ sộ của cả nỏ lẫn bộ tên khiến cho hiện tại nỏ liên châu rất kén người dùng. Chỉ những tên cung thủ binh cao to, có sức khỏe tốt nhất mới được trang bị loại vũ khí đầy uy lực này.
Vừa đi vừa nghĩ, Khải Minh hướng tới Âu Ruộng nhắc:
“Anh Ruộng, việc chế tạo thêm nỏ liên châu tất nhiên quan trọng, nhưng việc nghiên cứu để cải thiện nó cũng chẳng kém cạnh gì. Tôi thấy nỏ hiện giờ quá cầu kỳ cồng kềnh rồi, anh xem liệu có thể nào giảm bớt số mũi tên bắn ra nhưng gia tăng lượt bắn được không? Mũi tên cũng không nhất định phải theo kiểu cũ, có thể ngắn bớt, nhỏ đi cũng được, quan trọng là làm sao để mỗi chiến binh đều có thể cầm theo bốn, năm băng… hộp tên và việc nạp tên dễ dàng hơn là được.”
“Vâng…” Âu Ruộng nhíu mày, cố gắng nhớ kỹ những yêu cầu của Khải Minh. Thật ra Khải Minh biết rõ những thứ này tuy khó nhưng không phải thứ mà dân Việt không vượt qua được, điểm mấu chốt nhất vẫn nằm ở việc luyện được loại kim loại có khả năng chịu lực tốt để đáp ứng được những yêu cầu đó. Hắn cố nhớ lại những tài liệu tạp nham mình đọc ở trên mạng, rồi sực bật người, vui vẻ kêu lên:
“Đúng rồi, tôi quên mất!”
“Việc gì? Có quan trọng không?” Nội đứng bên cạnh hắn giật mình hỏi.
“À…” Khải Minh hơi lúng túng gãi gãi đầu bảo:
“Tôi vừa nhớ ra lúc trước có nghe mấy ông phường săn đồn rằng, về phía Tây Ty Ảnh có một dãy núi dài, trên núi có nhiều dân tộc rất thạo nghề rèn, giỏi đúc kim loại. Tôi không biết việc ấy có thật hay không nhưng… anh Ruộng, anh có thể sai người đi tìm hiểu thử...”
“A, đây quả là một tin tức giá trị, nếu chuyện này đúng như lời cậu nói, chúng ta sẽ có thể…. Ủa Lạc quân, Lạc quân cậu chạy đi đâu đấy?” Âu Ruộng chưa nói hết câu đã thấy Khải Minh quay lưng bỏ chạy từ lâu, phong thái… hoàn toàn là một bộ chạy nạn, khác xa khí thế hùng hồn muốn quét sạch giặc thù vừa nãy.
“Có chuyện gì mà…?” hắn ngạc nhiên nhìn mọi người xung quanh định hỏi, lại thấy bọn họ đều tủm tỉm cười vui, thái độ tựa như đang xem một màn kịch hết sức hài hước, rất đặc sắc vậy.
“KHẢI MINH, EM ĐỪNG TRỐN ANH NỮA. ĐỪNG CHẠY, ĐỨNG LẠI!”
Ngay lúc âu Ruộng còn đang thắc mắc khó hiểu thì ngay lập tức một tràng giọng hùng hồn vang lên. Đồng thời, mọi người xung quang cùng nhau phá lên cười ha hả hết sức sảng khoái. Còn đám quân sĩ đang huấn luyện đằng xa cũng như chùng lại, điệu bộ hết sức thú vị, rõ ràng như đang muốn kìm lại bản thân không được bật cười.
“KHẢI MINH, EM BIẾT ANH THƯƠNG EM MÀ, ĐẾN VỚI ANH ĐI EM!!!”
“Tê, cái quái gì thế?” Âu Ruộng sởn cả da gáy, tê cả sống lưng nghiêng qua phía Thiều Hoa hỏi lấy.
“Mùa xuân của hắn đến. Ha ha.” Nội dùng tay lau khóe mắt, hướng tới khu rào kề bìa rừng chỉ lấy. Nơi đó đứng lấy hai tên thanh niên mặt mày sáng sủa lại khá cao to khỏe khoắn. Một tên trong đó tuấn tú hơn hẳn, vừa không ngừng tìm cách đẩy ba, bốn tên quân sĩ Lĩnh Nam sang bên để tiến vào, vừa hướng bên trong hô vang.
“Là như vầy…” Thiều Hoa lắc đầu cười khổ bảo:
“Đó là hai tên Rây Phiên, Nhung Na, vốn là hai tên thủ lĩnh của một tộc người dân tộc vùng Tượng Quận. Bọn hắn trước đây là thuộc hạ của Lão Tam Trinh…”
“Ta có nghe qua họ, nghe nói họ rất dũng mãnh thiện chiến, cả tộc chỉ có chừng trăm chiến binh lại can đảm lì lợm dị thường…” Âu Ruộng gật đầu nói.
“Hừ, can đảm lì lợm gì chứ. Bọn chúng vốn là một lũ không có kỷ luật thì đúng hơn.” Thiều Hoa tiếp lời.
“Anh cũng biết, để Khải Minh có thể tham gia vào các buổi họp với các cừ súy một cách dễ dàng nhất mà vẫn không làm lộ thân phận Thiên Mệnh của hắn ấy. Chị Thục đã ép tôi hóa trang hắn thành một cô nữ hầu của Trinh.” Nội lắc đầu, vừa cười vừa kể.
“Nhan sắc của hắn khi mặc đồ nam thì cũng thường thôi, thế nhưng khi giả gái thì… chậc chậc, phải nói là nghiêng nước nghiêng thành nha, vì thế mà làm không biết bao nhiêu trái tim điêu đứng.”
“Bọn họ?” Âu Ruộng sợ hãi thốt lên.
“Hai tên ấy chỉ là một trong…” Nội bĩu môi. “Song chúng vốn vô kỷ luật, vì thế mặc kệ việc có thể bị quân kỷ đánh lấy, chúng vẫn mặt dày mày dạn nhiều lần mò đến đây tỏ tình. Mà bởi vì chúng đều là thuộc hạ của ông Tam Trinh, nay ông đã mất nên càng không ai quản chúng, cũng không ai nỡ trừng trị chúng, vì thế…”
“Ài… là một đoạn nghiệt duyên…” nàng Quỳnh hiếm thấy làm một bộ mặt than trời trách đất hết sức hài hước thở dài. Thái độ này của nàng lập tức làm đám người xung quanh phá lên cười to.
Ù Ù Ù Ù Ù Ù!!!!!!!!!
Ù Ù Ù Ù Ù Ù!!!!!!!!!
Đang lúc mọi người tươi vui cười nói, từ đằng xa bỗng đâu vang vọng tiếng tù và gọi chiến. Tiếng tù cao và ngân dài dằng dẵng, báo hiệu cho việc quân giặc có động tác: giặc tập kết với số lượng ở mức… đại quân.
Đồng thời, từ phía xa, một cột khói thật cao lập tức bốc lên, che kín cả một vùng đồi núi, khói dày đặc làm người ta tưởng đó là một thanh gậy sắt bỗng đâu mọc ra, đâm thẳng lên trời cao.
“Có biến! Mọi người, mau chuẩn bị.” Nàng Quỳnh lập tức hô lên, xung quanh mọi người đều không hẹn mà gật đầu, gương mặt đầy vẻ nghiêm trọng xoay người tiến về phía phòng mình, chuẩn bị lại giáp trụ, tay với lấy binh khí.
Riêng Nguyễn Sáng vốn dĩ giáp trụ đã không rời thân thì nhanh như cắt phi thân lên đài cao, chàng cất tiếng hùng hồn quát:
“Nổi trống, tập hợp!”
Tùng Tùng Tùng Tùng!
Mấy tên truyền lệnh quân nghe thế vươn vai nện trống dồn dập. Tiếng trống tuy thật nhỏ bé giữa những tràng tù và báo động đang kéo dài không ngớt, nhưng vẫn đánh vào tâm khảm những người lính đã quen với quân kỷ, bọn họ nhanh chóng như kiến ùa ra từ các khu nghỉ ngơi, từ các bãi tập, luân phiên nhau ào ạt tiến về phía sân bãi dưới ánh mắt đầy uy nghiêm của Lĩnh Nam quân súy Sáng.
“Tinh binh, từ bao giờ thứ quân này xuất hiện?” hai tên Rây Phiên, Nhung Na giật mình nhìn quân lính như đàn kiến nườm nượp lao ra, thế nhưng đâu đó trật tự rõ ràng, đội hình vuông vức, phương trận chỉnh tề cùng quân trang đầy đủ thì giật cả mình. Trong trí nhớ của họ, quân của tộc Việt vốn là tự túc tự phát, do từng bộ tộc tự trang bị lấy. Bọn họ có thừa dũng khí, có thừa can đảm cùng quyết tâm, vũ khí cũng không thiếu, thế nhưng để đạt được thứ chỉnh thể ngàn người như một trước mắt là điều không thể nào. Thứ này, chúng chỉ thấy quân giặc từng thể hiện được.
“Phiên, nhìn đám tướng lãnh kìa.”
Nhung Na nheo mắt đánh giá đám nữ tướng đang phiêu bước tiến lên đài cao, trong số đó có cả Nội, có cả Thiều Hoa, còn có cả ả Khải Minh mà tên anh hắn vẫn đang cố theo đuổi cũng đã giáp trụ đề huề, hiên ngang vô cùng.
Rây Phiên gật đầu nhìn hắn, trong mắt đã sớm không còn vẻ si tình ngây ngô như nãy nữa. Hắn dùng tay đè lên chuôi đao nơi hông, ánh mắt quét lấy bốn tên quân sĩ vẫn đang cản không cho họ tiến vào sâu, lại nghiêng người nhìn Khải Minh lần nữa rồi mới xoay đầu đi thẳng, Nhung Na cũng không nói một lời, kéo tấm áo choàng sau lưng lên che kín mặt, lạnh lùng theo sau.
“Xuất phát!”
Nguyễn Sáng trang trọng nhìn quân sĩ đã tề rụ chỉnh tề bên dưới, lại thấy Nội cùng Khải Minh cũng đã lên ngựa đàng hoàng, gật đầu đánh mắt với mình thì lập tức hất áo choàng hô vang.
“Mau mau, lên thuyền cho ta, mấy tháng nay không đánh trận tụi bây bị lười rồi sao?”
Một tên đội trưởng quân Hán tay cầm đại đao, chân đạp mông một thằng lính khiến hắn chúi cả người, lao thẳng lên con thuyền phía trước.
“Chèo thuyền, đã lên đủ, mau rời bến!”
Đợi tên kia chao đảo lung tung xong, tên đội trưởng mới phì ra một bãi nước bọt, tung người nhảy lên thuyền rồi quay đầu hét lớn. Đằng sau bốn tên thợ chèo nghe thế vội chống sào, cách thuyền ra dòng. Bên cạnh chúng, vô số chiếc thuyền lớn nhỏ đủ loại cũng thi nhau rời bến, ồ ạt dàn thành một phương trận khổng lồ, rẽ sóng tiến về phía bờ đối diện.
Nơi đằng đầu phương trận là chiếc thuyền lâu cao phải đến bảy, tám mét, gồm ba tầng lầu được trang trí rồng, cọp hết sức dữ tợn, rõ ràng là thuyền dành cho đám chỉ huy của giặc. Sau tiếp là gần trăm chiếc thuyền chiến bề dài rộng rãi, hai bên có đầy mái chèo, khiên che, lầu dưới không có mấy quân lính lộ diện, lầu trên lại có không ít cung tiễn thủ xếp hàng, ánh mắt lăm lăm nhìn thẳng, cung trên tay đã chuẩn bị từ lâu, hóa ra đây là cũng là một loại thuyền lâu dùng cho việc giao tranh trên nước, tên gọi là cung lâu thuyền. Đám lâu thuyền này lại được bảo vệ, bao bọc bằng vô số chiến thuyền, thuyền nhỏ, ngay cả thuyền cá cũng có. Trận hình Đại Hán uy thế lẫm lẫm, cờ xí rợp trời rẽ sóng tiến tới phía trước, thế trận như một con cá sấu hung ác đã mở sẵn mồm, muốn một phát cắn đứt tuyến phòng thủ của quân Nam làm đôi. Phía sau cách đó không xa là những chiếc thuyền lớn không lầu, đáy bằng nhưng lại chở chi chít đầu người, rõ ràng là dành cho việc đổ bộ của quân Hán.
“Sư phụ, để họ liều lĩnh như vậy có được không?” Ban Siêu nhìn đoàn thuyền, quân đang hồ hởi tiến ra xa giữa tiếng trống trận dồn dập, giọng lo lắng hỏi viên tướng già bên cạnh.
“Chúng ta không cho, hắn cũng muốn đi, đã hắn cho rằng chúng ta đang lười biếng tránh chiến, làm tổn hại quốc lực Đại Hán, ta còn có thể làm gì? Đến, Phụ Quốc, ngươi phải học tập bình tĩnh, làm tướng soái, tối kỵ nhất là để tình cảm lấn át phán đoán của bản thân.” Mã Viện vuốt râu, một thân trang phục văn nhã, không có miếng giáp nào trên người, khác xa với không khí chiến tranh ồn ào phía trước. Y vừa nhấp một ngụm trà ý dĩ, vừa cười khan dạy bảo Ban Siêu.
“Có những lúc ngươi cầm quân nơi đầu tuyến, sẽ có những kẻ thích thể hiện, ưa ngáng chân như thế xuất hiện.”
Y nhìn bóng lưng một tên tướng lĩnh Đại Hán đang đứng thẳng uy nghi như tượng trên chiếc thuyền lâu, nhếch mép nói. Tuy vị trí quá xa khiến y chỉ nhìn thấy bóng dáng, thế nhưng y có thể rõ ràng đó là bóng của Đại Hán phò mã, Trung lang tướng Lương Tùng. Ngoài ra, bóng dáng cầm đại đao của tên Cảnh Thư đang ở trên chiếc thuyền chở đầy lính kia cũng bị y dễ dàng thu lấy.
“Lúc ấy, chúng cầm lệnh bài trên tay, dễ dàng quên đi câu tướng ở ngoài không tuân lệnh Vua, cho rằng mình có đủ tài năng chống cả thiên hạ.” Mã Viện vẫn khinh bỉ nói, lão dùng giọng vừa già dặn lại rất thâm thúy khiến Ban Siêu không dám cãi lời, cúi đầu im lặng nghe lấy.
“Nếu ngươi tìm cách chống đối chúng, chúng sẽ tìm cách gia hại cho ngươi. Thân là ba quân tướng soái, nếu ngươi để trong doanh rối loạn thì trận chiến ấy chắc chắn sẽ bại. Vì vậy ngươi chỉ có thể tương kế tựu kế, mặc chúng lộng quyền, nhưng vẫn phải âm thầm chuẩn bị đón lấy tình huống tệ nhất. Tướng tài là người chưa tính thắng phải tính thua, ngươi phải chuẩn bị biện pháp xử lý nếu chiến trường thay đổi.” Mã Viện nheo mắt kết luận.
“Học trò đã hiểu.” Ban Siêu như vỡ lẽ, cúi đầu lạy bảo.
“Thế nhưng, sư phụ, ngài xem trận này chúng ta thắng hay thua?”
Mã Viện không đáp lời, chỉ quay đầu nhìn cột khói to tướng đang bốc lên từ phía sau mình một lúc mới âm thầm nhắm mắt, ngửa ra tấm phản sau lưng nằm dưỡng thần nói khẽ:
“Khó nói… khó nói…”