Trong khi hai hàng lông mày tuấn tú của Đô Kiên đã sớm nhăn thành một đoàn, một tên cừ súy trong họ Đô cười mỉa vặn hỏi Lý Man:
“Ba phải quá, vì sao lúc nãy ông khuyên không nên vọng động, giờ lại bảo nên ra quân?”
Lý Man dường như đã sớm đoán hắn sẽ hỏi câu này, đôi mắt y híp lại, cơ mặt co rúm tạo thành một bộ lấy lòng hết sức chân thành mở miệng nói:
“Nhất Lang, đây chẳng phải là do tôi ba phải. Chẳng qua là lúc trước khác lúc này khác, đây chính thực là cơ hội trời cho.”
“Vì sao? Làm sao ta không thấy?” tên kia trố mắt cãi.
“Hà hà, lúc nãy quân Nam có xu thế tan vỡ, quả thật chúng ta không nên dấn chân vào vũng nước đục đó, thế nhưng hiện giờ…” Vừa nói, Lý Man vừa nhìn về đám quân lính dưới con chim Lạc to lớn:
“Hiện giờ do có đám người này xuất hiện nên tình thế đã có biến hóa long trời lở đất. Tuy rằng cho đến lúc này bọn chúng vẫn chưa thể đẩy bật quân Hán ra ngoài, xong dựa theo tính cách vốn cẩn trọng của ả Thục cùng tên Kỳ, tôi không thể không nghi ngờ bọn chúng còn có quân cờ hay ở phía sau.”
“Dài dòng...” Tên kia toan cắt lời lại thấy Đô Kiên đưa tay cản lại mới hừ lạnh quay đầu không chú ý nữa.
“Tình thế này quân Nam thắng có thể chỉ là sớm hay muộn thôi, dù sao quân Hán vốn phải cách sông mà chiến, ưu thế vượt trội không thể nào giữ lâu dài được. Lúc này nếu chúng ta để ả Thục tung quân cờ ra thì danh tiếng sẽ về tay ả hết. Như thế chẳng bằng quân ta tiến lên, một phen thể hiện ra Đô Nhất Lang anh dũng vì dân Việt chống ngoại tộc, để tranh thủ danh vọng. Nhất Lang thử nghĩ xem, nếu nhờ có anh ra trận mà quân Hán tan tác, thế cục đó há không phải rất tuyệt sao?”
“Ha ha ha, người hiểu ta không ai ngoài tộc trưởng Man vậy.” Đô Kiên nghe hắn nói bật cười to hô:
“Vốn dĩ ta định đợi chốc nữa cho hai quân mỏi mệt mới ra tay, nay ông đã nói vậy thật đúng ý ta… ừm…” Nói đoạn, y quay sang xoa cằm nhìn lấy chiến trường nói:
“Được, quân bây, theo ta ra trận.” Đô Kiên rướn người rút gươm hô to.
Tù tù tù tù….
“Chị Thục, hắn động!” Thánh Thiên dùng tay giữ lấy nếp áo choàng đang tung bay, ánh mắt dõi theo cánh quân màu sắc sặc sỡ của Đô Kiên đang bẻ vòng sang bên phải chiến trường nói.
“Rốt cục hắn cũng ra tay, hừ, cũng láu cá lắm.” Thục cười khinh bảo. Hành vi nhân lúc cháy nhà hôi của được tên Đô Nhất Lang này vận dụng càng ngày càng thành thục, có thể coi như lô hỏa thuần thanh rồi. Hắn có bao nhiêu tính toán Thục hiển nhiên cũng có thể đoán tới một, hai, xong nàng mặc kệ, dù sao chỉ cần hắn không xúc động đi tạo phản trở giáo hàng giặc thì Trưng Châu cũng sẽ không làm hại đến hắn, vì thế Thục có cấm cản hắn ra sao cũng vậy.
“Chị… hắn sẽ không phản chứ?” Hiển nhiên Thánh Thiên cũng lo lắng Đô Kiên bất ngờ làm bậy.
“Sẽ không, cả đời chú Dương nhờ kiên cường chống quan lại nhà Hán mà được dân chúng kính mến, anh hùng xa gần nể phục. Cho nên một kẻ thông minh như hắn ắt phải biết mình nên làm gì, không nên làm gì mới đúng.”
“Cũng mong là như vậy…”
…
Trong lúc hai nàng bàn luận, trận chiến bên thủy trại đã sớm biến đổi thành cục diện mới. Bị đánh mạnh bất ngờ khiến quân Hán không thể nào không lùi về sau, dựa vào lớp tường gỗ vốn không mấy cao lắm để thực hiện công phòng chiến nhằm đối cứng với quân Việt. Đến lúc này, tác dụng của Lĩnh Nam quân cũng hoàn toàn giảm đi thấy rõ.
Điều đó chẳng phải là việc gì bất ngờ cho lắm. Dù sao thời gian thành lập của họ vốn không có bao lâu, lại đa phần huấn luyện, trang bị nhằm vào dã chiến cùng lâm chiến nên việc phải công thành đoạt trại là điều bất khả kháng. Tuy lúc đầu Khải Minh vốn cũng có ý định biến Lĩnh Nam quân thành một cánh quân tinh nhuệ toàn diện, công thành dã chiến thủy chiến gì ráo cũng cân được hết, xong hiện thực tàn khốc khiến hắn hoàn toàn vỡ mộng.
Thủy chiến đã không thể bàn, người Việt bình thường tuy có hay đi thuyền, đánh cá, xong đó không thể nào coi là toàn bộ tộc Việt đều như thế. Chưa kể thủy chiến cần phải có tàu, có thuyền, có phối hợp, có bài tập riêng hoàn toàn khác hẳn với bộ chiến mà lại ngốn không ít thời gian, cho nên sau khi Khải Minh hớn hở chạy đi tìm Lê Chân xin nàng chỉ dạy liền bị Thánh Chân công chúa dội cho một gáo nước lạnh tỉnh cả người. Kể cũng đúng, nếu thủy quân có thể chỉ cần vài tháng là luyện thành thì Tào đại ca cũng chẳng thể nào vì mấy chục vạn con vịt cạn không thể xuống nước mà thua trận Xích Bích được, vì thế mà Khải Minh đành phải ngậm ngùi chấp nhận.
Thế nhưng, hắn càng không ngờ ngay cả công thành cũng phức tạp chẳng khác gì thủy chiến. Cứ mang mộng tưởng đời như là phim đi, rồi sẽ thấy hiện thực tàn khốc cỡ nào. Không phải cứ việc đi vào rừng chặt vài trăm khúc gỗ lớn nhỏ dùng dây thừng cột lại với nhau thành thang là có thể vứt cho binh sĩ xung phong leo lên tường thành được đâu. Đằng sau công thành là cả một môn khoa học kỹ thuật hết sức công phu, chưa cần kể đến các thứ nguy hiểm như xe tháp, xe trùng, xe tông, máy bắn đá các loại, chỉ cần kể về chiếc thang công thành đã thực sự làm người ta nhức đầu không dứt. Thang phải có cốt xương vững chắc, là loại một hoặc hai cột, thân không thể quá to để tránh cồng kềnh quá mức ảnh hưởng đến tính cơ động, càng không thể quá nhẹ vì phải chịu lực lượng tì đè đủ cho quân sĩ leo lên. Đã vậy đầu thang còn phải có móc, dây buộc phải chắc chắn, số nấc thang phải hợp lý v.v... Đó là chưa kể đến việc khi công thành đoạt trại còn phải biết phối hợp giữa các loại binh chủng ra sao nữa kia. Thế mới có việc các bộ tộc du mục phương Bắc tuy vỗ ngực tự nhận mình vũ dũng ngập trời trên lưng ngựa vẫn phải chịu mang danh không biết công thành. Tóm lại là trừ khi chủ soái không quan tâm lắm đến mạng sống của binh sĩ dưới trướng mình, dụng binh như kiểu biển người chèn lên trên thì công thành quả thực cần hao tổn không ít thời gian cùng tinh lực để chuẩn bị, dù sao không thể để quân sĩ vừa huấn luyện chiến đấu vừa ngày đêm cưa gỗ đóng đinh chế tạo xe, máy các thứ linh tinh được. Những việc đó luôn luôn phải có một lực lượng khác trong hệ thống quân đội chuyên xử lý: công binh. Thử nghĩ nếu để mấy người Sáng, Hoẵng, u Mạn… bỏ xuống vũ khí làm công binh xem… Khải Minh chỉ cần nghĩ tới đó là lại đau lòng lắc đầu.
Cho đến lúc này trong quân đội nước Nam, nếu có nhánh quân nào có thể xưng mình không cần công binh phụ trợ vẫn có thể công thành chiến thì đó chắc chắn không ai khác ngoài Lạng Sơn quân dưới trướng của Đào Tam Lang. Một phần do bọn họ vốn được tạo dựng từ những binh sĩ từng tham gia vào các trận công phá thành trì dưới thời Tô Định như Luy Lâu, Cổ Loa nên đã sớm quen với việc chế tạo và sử dụng khí cụ công thành. Phần khác, bọn họ chính là lực lượng chủ chốt đóng giữ cửa ải hiểm yếu nơi đất Bắc Lĩnh Nam ròng rã mấy năm trời, từng phải chống trả với muôn ngàn vạn trạng phương pháp công thành của quân thù, vì thế mà càng có kinh nghiệm phong phú hơn hẳn, cũng tích trữ được rất nhiều khí cụ đầy đủ.
Vì thế đến lúc này khi mà quân Hán gần như đã co cụm về thủy trại hòng nghĩ cách hao tổn quân Nam, tìm điểm đột phá, Lạng Sơn quân buộc lòng phải tiến lên tuyến đầu làm nòng cốt dẫn dắt quân Việt công trại. Hiển nhiên còn có một lý do nữa, Lĩnh Nam quân dù sao cũng là một trong những lực lượng chủ chốt duy nhất hai Vua có thể nắm giữ trọn vẹn lúc này, song song với một nhánh khác chính là thân vệ Nội thị quân, lại có chiến đấu lực vượt trội hơn hẳn. Thế nên cho dù Sáng có muốn đem quân lên tham gia công thành đi nữa thì Đào Kỳ cũng cương quyết không chịu chấp nhận.
Cuối cùng, quân Lĩnh Nam đành phải nhường ra vị trí chủ công cho binh sĩ tộc Việt, chậm rãi lùi về sau dàn trận chờ đợi. Đừng tưởng bọn họ lùi dần ra sau liền không còn tác dụng gì, thật tế những gì Lĩnh Nam quân biểu hiện đã chẳng khác nào một hồi trống dài giọng đùng đùng vào trong tinh thần ba quân tướng sĩ. Có bọn họ áp trận, Việt binh càng thêm an tâm chiến đấu càng đánh đấm ra sức, còn quân Hán cũng kiêng kị họ mấy phần nên không dám mở cửa đối công nữa.
“Đánh lui bọn nó! Đâm mâu!!!” Một tên Hán quân quân hầu hét to.
“Giết!!!!” Đám lính dưới quyền hắn đáp lời, từng cây mâu sắc bén từ trên tường trại cao không tới năm mét tựa như bầy rắn độc lao ra, thi nhau lách qua tấm thuẫn mây tròn đâm phầm phập vào thân thể một người Việt binh, trường mâu rút mạnh mang theo sinh lực của hắn ta, dùng cách thô thiển nhất hất cái xác với đôi mắt trợn tròng không cam lòng rớt xuống thang mây, thế nhưng chẳng bao lâu sau liền có hai cái xác mặc giáp đỏ theo sau hắn rơi xuống, trên mặt chúng còn cắm lấy mấy mũi tên đang thi nhau rung rẩy, tựa như lời an ủi của đồng đội nhắn lại họ đã thay hắn báo thù.
Trên chiến trường, sinh mệnh của con người chính là cỏ rác. Tuy nói rằng thủy trại đa phần được xây dựng nhằm phòng thủ kẻ địch tấn công từ phía mặt sông nên đoạn tường phía sau cũng không cao lắm, chỉ tầm trên dưới năm mét một chút, thế nhưng đối với quân Hán lúc này đã có thể coi là nguồn trợ lực hết sức to lớn. Kinh nghiệm phong phú về công thành chiến của chúng ngay lập tức phát huy mạnh mẽ ưu thế của mình.
“Cút xuống! Hừ!” Xoẹt!
Đặng Hồng thu hồi kim thương, hừ lạnh khó chịu nhìn đám Việt binh với đủ loại trang bị sặc sỡ màu sắc bên dưới chân tường trại. Quân Hán tuy có lợi thế thật lớn khi đưa trận chiến về lại thế công phòng nhưng việc quân Nam tấn công quá dữ dội phần nào đã vượt qua tính toán của đám Hán tướng, làm cho kế hoạch của chúng không thể không thay đổi, không sao dám giả bại dụ man binh xông vào trong thủy trại để giảo sát. Cũng may, dường như từ đầu Cảnh Trung lang cũng không hẳn hoàn toàn bố trí quân sĩ theo như kế hoạch do Đặng Hồng đề ra nên bọn chúng vẫn có thể kịp thời biến hóa, thành công chặn lấy thế công ồ ạt của man tặc.
Làm chủ ba quân tướng sĩ, có trong tay kế hoạch dự phòng cũng chẳng có gì đáng chê trách, ngược lại, sau khi nghe xong đầy đủ kế sách của Cảnh Thư bản thân tên giáo úy cũng phải giật mình trầm trồ, cảm thấy tính khả thi của nó cao hơn hẳn bố trí cũ. Chỉ là… tên Đặng Duyên Bình không khỏi liếc mắt nhìn về phía trong thủy trại nơi tốp tốp Hán quân vừa chuẩn bị giáp trụ, vừa lục lọi tìm tòi những sợi thừng dài chắc chắn, chỉ là kế hoạch đột biến như vậy thật sự khiến người ta khó lòng tin tưởng, cũng khó tránh làm cho người khác cảm thấy hụt hẫng, rốt cuộc tên Cảnh Thư cũng chỉ coi bọn hắn như những quân cờ trong tay thôi.
“Thiếu chủ cẩn thận!”
Véo!
Trong lúc Đặng Hồng đang mải miết nhìn về sau, một tên Việt binh âm thầm mon men tới gần quăng mạnh thanh rìu định ám sát hắn.
PHẬP!!!!
Đáng tiếc lưỡi rìu còn chưa tìm tới mục tiêu đã bị một tên thân vệ liều mình ngăn cản, thay vì phải cắm vào ngực tên Hán tướng, lưỡi rìu chỉ có thể chém sâu vào cổ tên thân vệ. Máu tanh nồng bắn vào mặt kéo Đặng Duyên Bình trở về lại với chiến trường, để hắn nhìn thấy tên to gan lớn mật vữa nãy vẫn còn đang nhìn chằm chằm lấy mình, mặc cho loạn đao xung quanh băm thành muôn mảnh. Hắn chết đi không những không làm man quân sợ hãi, ngược lại còn làm chúng hăng máu hơn.
“Hoan hô!!”
“Đô Nhất Lang cũng lên rồi!”
Đặng Hồng đương nhiên nghe không hiểu man binh đang hô to gọi nhỏ điều gì, xong y có thể nhìn thấy rõ một cánh quân khác của tặc vốn im hơi lặng tiếng từ nãy đang ùn ùn kéo tới. Việt binh như người say được rót thêm rượu ngon trở nên điên cuồng hơn hẳn.
“Giết lên đi tụi mày ơi!!”
Nhiều tên thậm chí chỉ hơi mượn nấc thang làm chỗ đạp liền ba, bốn bước phóng thẳng lên trên bờ tường gỗ, nhân cơ hội quân Hán không kịp phản ứng liền vung gươm chém loạn giết chết mấy tên, thành công chiếm được một vùng bờ tường nhỏ.
“Lẹ nào lẹ nào, mau mở cửa trại.” Một tên trong số đó vội vàng ra lệnh, đoạn hắn rống lên nâng gươm huỳnh huỵch lao lên đón lấy tên Đặng Hồng đang chạy tới.
“Ổn định vị trí, giữ chắc lấy, đừng hoảng hốt!” Tên Đặng Duyên Bình hừ lạnh không mảy may chú ý đến kẻ địch, kim thương trong tay khẽ rung đã để lại một cái động to tướng trên ngực Việt binh. Xoay người, thu thương, lại một nhát đâm khác như nước chảy mây trôi hạ gục một kẻ địch khác:
“Chớ lộn xộn, chúng sắp toi rồi!”
“Khà khà, đúng vậy.”
Vừa hay lúc này tên Cảnh Thư cũng khoanh tay bước tới bên cạnh hắn, theo sát y là tên hàng tướng Hồ Bá đã thay một bộ trát giáp thân vệ quân Hán hết sức uy phong. Thoáng nhìn lớp máu me bê bết trên thân trát giáp cùng thanh đại đao mà tên Man tướng đang sử dụng, lại nhìn thái độ dửng dưng chẳng buồn rút bội kiếm bên hông của Cảnh Thư. Hiển nhiên đám Việt binh vừa thành công leo lên tường trại khi nãy đã sớm bị hàng binh dưới trướng tên man tướng xé thành muôn mảnh. Đặng Hồng thoáng cảm thấy khinh bỉ.
Uy phong gì thứ đạp lên trên máu thịt đồng bào? Man binh tuy có không ít kẻ vũ dũng gan góc, xong cũng thật lắm bọn bán nước cầu vinh, thấp kém hèn mọn. Tên bên cạnh Cảnh Thư là một kẻ như vậy, mà còn bên dưới… bên dưới thì.
“Ha ha ha ha! Đến tốt lắm, đến đông lắm, đến đầy đủ lắm.”
Cảnh Thư nhìn quân Việt chen chúc dưới ngọn cờ thêu hình con rắn nước của Đô Hầu Cửu Chân, ngửa mặt cười lớn, dường như phản quân đến càng đông y càng thích vì như thế càng thể hiện được tài năng của mình.
“Tên kia bị điên sao? Thấy chúng ta tới còn phá lên cười?”
Đô Kiên rên hừ hừ nói, tay khẽ nắm chặt bờm con chiến mã. Bất chợt, sau ót hắn bỗng thấy rờn rợn, tóc gáy sởn cả lên, bất tri bất giác Đô Kiên chồm người cúi sát lưng ngựa, vừa ngay lúc đó một lưỡi gươm bén tựa rắn độc lao thẳng tới khoảng không lúc trước là cổ hắn.
Véo!
Lưỡi gươm không tìm thấy cổ Đô Kiên liền đổi chiêu đâm thẳng xuống lưng
PHẬP!!!!
May là tên Đô Nhất Lang cũng phản xạ không tệ vội nhoài người té xuống ngựa né đi.
“Aaaa!!!”
Tuy thế, eo của hắn vẫn bị cắt một vết sâu hoắm.
“Lý Man, mày dám...” Một tên cừ súy họ Đô hoảng hồn gọi to, tay đang cầm cương ngựa chưa kịp dời đến chuôi đao bên cạnh đã cảm thấy cơ thể bị ba bốn vật nhọn xuyên thủng, vô lực ngã rạp trên đất. Xung quanh hắn càng có không ít quân lính Việt bị chính đồng bào của mình trực tiếp giết hại, trong nhất thời, hàng ngũ của quân Nam trở nên hỗn loạn khôn cùng.
“Ha ha, Thiên binh Đại Hán đã đến đây, chúng bây còn chờ đợi gì nữa?” Cảnh Thư khoái ý dâng trào, hai tay giang rộng như muốn ôm trọn cả chiến trường mà rống thật to.
Lý Man nghe vậy liền hô lên:
“Cung nghinh Thiên quân giáng lâm, Đại Hán uy vũ!”
“Đại Hán uy vũ!”