Hắn buông thõng mình trên chạc cây, ngẩng đầu nhìn trời, thi thoảng còn chơi xấu đáp lời.
"Xin thần ban cho mùa màng."
"Ban, ban, ban."
"Xin thần thương xót…"
"Thương, thương, thương." Hắn phóng tầm mắt ra ba mươi dặm ngoài.
"Xin thần… đừng vứt bỏ…." Lão nói xong thì tựa luôn vào gốc cây.
"Không vứt, không vứt… không…"
Suýt nữa hắn đã nhào xuống khỏi chạc cây.
Không riêng gì lão, ở vùng đất này, ai ai có việc cũng đều ngửa cổ cầu xin thần linh nhưng xưa nay hắn có bao giờ thấy thần nào hiển linh đâu? Cứ cho là hắn thấp kém, không xứng để nhìn thấy thần vậy những người mỗi ngày đều thành tâm phụng thờ này thì sao? Có ai trong số bọn họ từng thấy thần linh ra sao chưa? Có ai cầu mà được thần linh giúp đỡ chưa?
Mà mấy lời thì thầm trong miệng bọn họ cũng thôi đi, mấy lời trong lòng họ dành cho thần hắn vẫn nghe thấy.
Như rót vào tai.
Những lời đó… những lời đó là nói cho hắn nghe… sao? Là cầu xin hắn sao?
Lẽ nào "thần" trong miệng, trong tim bọn họ là hắn…
Nhưng hắn là cái thá gì đâu, tại sao lại là hắn kia chứ? Đến cả chạm vào bọn họ hắn còn không làm được thì hắn lấy tư cách gì, lấy năng lực đâu mà ngồi trên bệ thờ của bọn họ?
Hắn là vị thần duy nhất trên thế gian này, cũng là cái thứ thần gì đâu mình hay mắng sao?
Thiên nhiên nơi đây bạc đãi những con người làm lụng vất vả, trời cao cho họ trí khôn chỉ hơn đứa trẻ, thọ mệnh cũng ngắn ngủi nhưng họ chưa từng bỏ cuộc, chưa từng từ bỏ vị thần mà mình chưa bao giờ gặp.
Còn hắn?
Đến cả mình là thứ gì còn không nhớ.
Hắn xứng đáng là thần của họ sao?
Gió đêm thổi qua tán cây, hắn không biết lạnh là gì nhưng lão Trình thì biết. Lão co người lại thiếp đi.
Một đêm yên ả.
Sáng hôm sau, nàng dâu mới đến vụng về bái lạy ra mắt đại thụ trong làng. Nàng như bao người khác, nói năng khó khăn, cố lắm chỉ ra được mấy tiếng mà thôi, gương mặt cũng là hố đen như sắp nứt ra. Cả người nàng chỉ có đóa hoa trên đầu là màu đỏ.
Nhưng chẳng thấy ai bi quan cả, họ lại cất lên tiếng hát vui vẻ.
Hắn ngồi trên cây nhìn bọn họ, cảm thấy mình quả thật chẳng xứng chút nào.
Nhưng mà, dù xứng hay không bọn cũng coi hắn là thần.
Cuộc sống nơi đây lại trở về nếp sống hàng ngày, nàng dâu mới ngờ nghệch cũng theo chồng ra đồng cày cấy.
Hắn cũng bắt đầu nhận ra, dù hắn không biết tại sao hắn là thần ở đây thì hắn vẫn phải chấp nhận, không thể bỏ mặt tín đồ của mình được nữa. Vậy là hắn theo chân người ra đồng, xuống ruộng.
Đất đai khô cằn, vậy hắn phải tìm cách phục hồi sự sống nơi đây.
Nhưng rất nhanh, hắn lại đối mặt với thất bại.
Những nơi hắn có thể vươn tới không có chút dấu hiệu nào của sự sống. Hắn có thể cảm giác được "sự sống" này lan trong không khí, càng đi xa càng loãng rồi biến mất.
Người còn không đủ "sự sống" nói chi đất đai?
Hắn bắt đầu khó hiểu.
Nếu đây đã là một vùng đất chết sao bọn họ không rời đi, lên đường tìm một vùng đất mới kia chứ?
Có thể bọn họ đầu óc không thông minh, dáng người thấp bé nhưng cũng đâu ngu ngốc đến nổi ngồi chờ chết ở đây?
Tại sao đời đời bọn họ phải vây lấy thân cổ thụ, đồng cam cộng khổ với nơi này?
Nghĩ đến đây, hắn bỗng kinh hãi nhìn lên gốc cổ thụ không biết bao nhiêu tuổi kia. Lần đầu tiên, hắn cảm thấy sự tồn tại của mình là sự trói buộc.
Sao hắn không nhận ra, nơi "sự sống" mãnh liệt nhất là gốc cổ thụ này. Lấy nó làm trung tâm, càng ra xa, "sự sống" càng nhạt dần.
Khó trách bọn họ đời đời sinh ra, lớn lên rồi chết đi quanh thân cây này.
Đại thụ như ngôi nhà nuôi dưỡng bọn họ mà cũng như chiếc lồng vây chết bọn họ.
Hắn nhìn nàng dâu mới vác cái bụng to tướng đang ngồi trên chõng chuẩn bị may vá cho con trai hoặc con gái nàng, lòng hắn thắt lại.
Hắn biết, đứa trẻ sinh ra dưới "sự sống" hiếm hoi rốt cuộc sẽ có hình dạng gì? Hắn không hiểu sao người ta vẫn sinh ra những đứa trẻ dù biết, dù biết…
Bởi vì hắn không có thân thích, bạn bè nên hắn không thể hiểu tiếp nối thế hệ là gì.
Hắn là vị thần cô đơn và ngu ngốc.
Thiên quy, hắn không biết sao mình biết thứ này, là thứ ép buộc hắn trở thành vị thần, ép hắn nghe hết buồn vui khổ nạn của họ nhưng lại không cho hắn quyền hạn để can thiệp vào.
Hắn trơ mắt nhìn nàng dâu mới sinh ra đứa trẻ, đứa trẻ cũng chỉ có hốc miệng và hai khe nhỏ ở mắt.
Nhưng nó sẽ là đứa trẻ khỏe mạnh.
Đứa trẻ đó tên là Mộc, Nhất Tâm Mộc.
Tất cả người ở đây đều mang họ Nhất Tâm dù không có cùng huyết thống. Hắn đã biết điều này từ rất lâu rồi.
Đến khi Mộc lên năm, cái tuổi chó cũng chê nó phiền, nó trở thành đứa trẻ hiếu động.
Mỗi ngày nó sẽ lén rời khỏi nhà, chạy theo người lớn ra đồng, trèo lên những chạc cây lùn nhìn về nơi xa. Hắn chưa bao giờ nghe nó cầu xin gì cả nên không biết nó nghĩ đến điều gì, chỉ biết mỗi tối về nhà, nó dùng cái giọng sứt sẹo và a a nói chuyện với nàng dâu mới.
Đại khái cũng chỉ là ngoài kia có núi non bao la, tại sao không ai đến đó.
Hắn từng nhìn thấy rừng, nhìn thấy núi nhưng ngoài ba mươi dặm hắn không thể nào vượt qua. Cứ như nơi đó có bức màn ngăn cách hắn với bên ngoài vậy. Hắn cũng không biết phàm nhân có đi tới chân trời đó được hay không?
Mười tuổi, Mộc như con sóc nhỏ bay nhảy khắp nơi, trèo cả lên thân cây của hắn. Người lớn trong làng thấy vậy, ai nấy đều hốt hoảng, vừa kéo nó xuống vừa a a xin hắn thứ lỗi.
Hắn có trách nó đâu?
Còn Mộc thì nói: "Nhưng mà, trên cây, không có thần nào, hết."
"Trẻ con ngu dại, trẻ con ngu dại." Nàng dâu mới đét vào mông nó, vừa khấn vái với cây đại thụ vừa xin lỗi xóm giềng, đánh cho nó khóc toáng lên.
Nhưng Mộc không nói sai, trên cây làm gì có thần nào, chỉ có một kẻ vô dụng, đến chạm vào chân thân của mình còn không có sức nữa là.
Từ sau lần đó, Mộc được xem như một vị anh hùng của đám trẻ loắt choắt hơn kém nhau vài tuổi. Cuộc sống ở cái làng này cũng trở về quỹ đạo.
Mộc mười lăm tuổi.
Thiếu niên chỉ nhỉnh hơn người khác nửa cái đầu hăng hái dẫn theo đám trẻ lẻn ra ngoài, mở cửa lồng. Đám trẻ ngu ngơ, chúng chỉ biết nghe lời ông, cha mình ở trong làng sống bình lặng. Mộc như hòn đá bị ném xuống mặt nước tạo thành những vòng sóng lan rộng, nó đứng lên khuyến khích lũ trẻ theo mình đi tìm vùng đất cây có thể mọc, lúa có thể nảy mầm và trĩu hạt.
Hắn không nghĩ rằng nếu có thể tìm ra nơi tốt hơn, bọn họ đã không định cư ở đây từ bao đời nhưng hắn cũng không nghĩ Mộc sẽ tìm được.
Không biết xuất phát từ tâm tư gì, hắn theo chân Mộc và đám trẻ.
Nhưng ngoài ba mươi dặm, "sự sống" cạn kiệt, giới hạn của hắn cũng dừng ở đó.
Hắn ngơ ngác nhìn đám trẻ đó đi vào chỗ chết, ôm theo mộng tưởng xuống mồ, để lại đau thương cho những người thần trí ngờ nghệch.
Trăng treo lên cao. Bóng đêm bị ánh trăng xua tan đi nhưng lũ trẻ cũng không trở lại.
Không hiểu sao lòng hắn bồn chồn vô cùng, chỉ muốn bay vọt đến bên cạnh lũ trẻ đó nhưng hắn không làm được.
Lồng giam dưới tán đại thụ, người ta muốn có thể đẩy cửa ra mà một vị thần như hắn lại chẳng lay nổi song sắt.
Hắn cảm thấy bất an, chắc chắn lũ trẻ sắp xảy ra chuyện không may.
Hắn bay vọt vào làng, hắn luồn vào nhà nàng dâu mới, lay động nàng nhưng còn chẳng chạm được vào người.
Mộc sắp không còn.
Hắn lại xoay như con ruồi không đầu. Hắn còn không bằng ngọn gió lay người ta nữa là.
Hắn chán nản ngồi bệt ở đầu giường lầm bầm: "Mấy người còn không dậy Mộc sẽ không xong đó. Dậy mà đi cứu nó đi."
Nàng dâu mới mở bừng mắt.
Nàng hí đôi mắt mình ra, lay chồng dậy.
"Thần, nói, phải đi cứu Mộc."
Bọn họ có thể nghe hắn thì thầm vào tai sao?
Nếu hắn có ý thức vẹn toàn, hắn sẽ biết bọn họ có thể nghe hắn tỉ tê là vì đang chìm vào giấc ngủ. Nhưng giờ phút này đây điều ấy chẳng còn quan trọng nữa, hắn chẳng nghĩ nhiều đến vậy mà lập tức vọt khỏi nhà nàng dâu mới rồi chui vào từng nhà có vị anh hùng bỏ đi, nói vào tai họ.
Nhưng làm thế này quá tốn thời gian.
Giá mà có thật nhiều hắn nhỉ.
Nghĩ đến đây, hắn không biết mình đã làm sao, chỉ thấy trước mặt mình là những khuôn mặt đang say ngủ. Hắn bắt đầu thầm thì vào tai họ…
Chỉ chốc sau, rất nhiều người đã tụ họp giữa đường lớn, bọn họ kháo nhau thần đã hiển linh.
Hắn: "..."
May mà hắn có thể tách "mình" ra thật nhiều mảnh.
Hắn theo sau đoàn người đó lên đường tìm "mấy vị anh hùng trẻ con kia" về nhà.
Cơ mà còn chưa đi được bao xa, lũ trẻ đã được đưa về.
Đó là một người trùm kín áo choàng, kể cả lúc đứng trước mặt thôn dân cũng không hề kéo mũ trùm đầu ra. Vừa trông thấy bọn họ, lão Trình là người nói năng trôi chảy nhất chạy đến. Lão cúi người thật thấp rồi nói: "Tiên sứ."
Tiên sứ trông cao hơn hẳn thôn dân ở đây, dù người này che kín kẽ nhưng vẫn có thể nhìn ra dáng đi, xương cốt không giống đại đa số người trong làng.
Trông tiên sứ rất là bình thường. Hắn nghĩ vậy.
Mà ở đây, bình thường chính là khác thường.
Dựa theo hiểu biết của hắn, người như vậy, lại có thể xưng là tiên sứ hẳn mặt mũi cũng sẽ không giống những người khác. Vì vậy hắn sà xuống, muốn nhìn người đó trông như thế nào.
Ngay khi hắn vừa sà đến, tiên sứ dẫn đầu bỗng ngước lên nhìn. Hắn thấy vậy thì có hơi chột dạ, nhưng không hiểu sao hắn có cảm giác chỉ cần mình che giấu đủ kín thì người đó sẽ không nhìn ra vì vậy hắn bạo gan sáp lại gần.
Hắn nheo mắt nhìn dây vải vài quấn quanh chiếc túi to hơn nắm tay của tiên sứ đó.
Tiên sứ cũng không thật sự chú ý đến hắn. Người đó từ tốn đáp lại lời lão Trình.
Hóa ra đám trẻ chạy đến vùng cấm, không chịu nổi "linh khí" ở đó nên cả tập thể ngất đi, nếu nhóm tiên sứ không nghe động, không tới kịp chỉ e là bọn trẻ đã về chầu.
Cả làng rối rít cảm ơn tiên sứ, cảm ơn thần linh.
Tiên sứ nghe vậy thì cất giọng hỏi.
Hắn bỗng cảm thấy cái kiểu hỏi này mới quen thuộc làm sao.
"Thần nào?"