Thành phố biển mùa này rất thích đổ mưa, không lớn, chỉ là những cơn mưa nhỏ rả rích đêm ngày. Chúng sẽ xua đi cái oi ả của mùa hạ, giữ lại chút ấm áp của đầu xuân. Những hạt mưa dày đặc, thấm ướt mái tóc Cố Sơ. Hôm nay ra khỏi nhà vội vàng, cô quên không mang ô. Từ khách sạn đi ra, cô muốn bắt xe về nhà nhưng ngặt nỗi thời tiết này cầu một chiếc xe cũng khó.
Đường phố rất vắng người, thi thoảng có vài người qua lại, cũng che ô, bước những bước gấp gáp. Sau khi đợi gần mười phút, Cố Sơ ngược lại cũng không gấp nữa. Cô chầm chậm dạo bước men theo hướng khu thành cũ. Dù gì cũng không bắt được xe, đằng nào cũng không mang ô, cơn mưa không lớn lại trở thành lý do để có thể thoải mái ngắm cảnh đường phố. Đời người là vậy, bạn sống quá cố gắng thì sẽ bỏ lỡ rất nhiều thứ, giống như một phong cảnh đáng để bạn dừng chân, một bản nhạc cũ chầm chậm, du dương hay chỉ là một phiến lá bay lơ lửng trước mắt. Rồi cũng phải dừng lại nghỉ ngơi mới có được những lĩnh hội.
Chỉ mới mấy năm ngắn ngủi nhưng Cố Sơ như đã sống qua mười mấy năm từng trải cần có của một người bình thường. Cô không quan tâm tới cái nhìn của người khác, không phải vì cô sợ đối mặt mà vì sau khi đã trải nghiệm những giày vò khủng khiếp và tuyệt vọng, dường như cái nhìn của người khác đối với cô mà nói đã không còn quan trọng đến thế nữa. Không quan trọng không phải vì không quan tâm, mà cô không có thời gian để đoái hoài. Cô không ngừng nói với bản thân, thật ra mỗi ngày lại là một ngày mới, không tuần hoàn, không lặp lại, mỗi chuyện xảy ra mỗi ngày đều là độc nhất vô nhị, vì nó sẽ không lặp lại lần thứ hai với cùng một cách thức, ‘thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng’.
Cô của ngày trước đã từng muốn chết.
Sau khi bố mất, rồi mẹ cũng đi theo, Cố Tư nằm trong lòng cô khóc sướt mướt, đám người đòi nợ hắt sơn đỏ lên cửa nhà, suýt nữa thì cho một mồi lửa thiêu rụi cả nhà cô, giây phút ấy, Cố Sơ đã thật sự nghĩ tới cái chết. Năm đó cô còn chưa tốt nghiệp nhưng cũng năm đó đã chịu trăm ngàn vết thương.
Và cũng vào năm đó, vì cô, suýt nữa Kiều Vân Tiêu đã bị bố anh ấy đánh gãy chân.
Cả cuộc đời này, con người rồi sẽ gặp một điểm nút, có lẽ là một năm nào đó, một giây phút nào đó, phải vượt qua, phải tranh đấu mới có thể tái sinh.
Quá trình này đau khổ mà gian nan. Cô rời khỏi nhà, rời khỏi Cố Tư đang nước mắt lưng tròng, cứ thế một mình bước đi trong vô định, chẳng biết đã đi bao lâu, cũng chẳng biết đã gặp bao người. Cô không mang tiền, không mang di động, không một ai có thể liên lạc với cô. Cô cảm thấy sao ông trời bất công đến vậy, vì sao rõ ràng đã ban phát cho cô rồi lại đang tâm cướp mất?
Cô bị thu hút bởi một điệu nhạc êm ái rồi từng bước leo lên núi theo tiếng nhạc như tiếng thiên nhiên ấy.
Đó là ngôi chùa lớn nhất ở Quỳnh Châu, thanh âm ấy tới từ tiếng đánh chuông của một nhà sư, có tiết tấu, không nhanh không chậm, như những bước chân của thời gian, từng nhịp từng nhịp xếp chồng ngày tháng lên nhau. Cô rất hiếm khi tới ngôi chùa này, chỉ từng theo bố mẹ tới đây một lần khi còn rất nhỏ. Cô còn mơ hồ nhớ rằng bố đã từng dâng lên ba nén hương rất cao, rất cao, nét mặt vô cùng rạng rỡ. Ngay sau đó không lâu, gia đình họ chuyển tới Thượng Hải, căn nhà cũ ở Quỳnh Châu cứ để không như vậy.
Lúc ấy bố định bán căn nhà ở Quỳnh Châu đi, kết quả bị mẹ phản đối, nói không được bán nhà, chưa biết chừng sau này còn dọn về ở. Khi đó bố còn trách mắng mẹ, chê bà không nói được câu gì tử tế. Vậy mà về sau, trước lúc mất mẹ nói với cô: Con phải nhớ, bất luận là khi nào cũng phải để lại cho mình một đường lùi. Bây giờ việc duy nhất mẹ cảm thấy xứng đáng với các con chính là đã không bán căn nhà đi.
Thật ra Cố Sơ hiểu, không phải bố không giữ lại đường lùi cho mình mà đã hoàn toàn cắt đứt nó. Người không giữ cho mình một đường lùi mới có thể dũng cảm tiến bước, chỉ được tiến không được lùi.
Năm đó, cô vô thức đi vào ngôi chùa đã giúp bố thực hiện được tâm nguyện. Đúng vào buổi chiều, ánh nắng rất gay gắt, rọi xuống khiến da đầu cũng như lên men. Ngôi chùa ẩn mình trong rừng núi, giữa um tùm cây lá, nơi gió núi thổi qua nên thanh mát hơn rất nhiều. Đa số mọi người đều tới chùa vào buổi sáng, vì vậy buổi chiều không nhiều du khách. Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy khói trắng mịt mù, ngọn đèn dầu xếp thành hàng lặng lẽ cháy và những tiếng chuông chùa chậm rãi, xa xôi. Cố Sơ phiền muộn trong lòng, dạo bước tới trước bảo điện cao lớn. Mái chùa dát vàng nguy nga xuyên qua ngọn cây cổ thụ cao vút tận trời xanh, ngước mắt lên nữa là bầu trời xanh biếc như ai gột rửa.
Hôm ấy có lẽ đang cúng bái gì đó, trước bảo điện vô cùng trang nghiêm. Sư trụ trì cùng rất nhiều tăng ni phật tử niệm kinh dưới cây cổ thụ, có tiếng gõ mõ, thi thoảng lại xen ngang tiếng gõ chuông ngân nga. Cố Sơ không dừng bước lại xem. Cô chỉ đi vào điện, ngẩng đầu nhìn lên Phật tổ ngồi tít trên cao, sau đó thành kính quỳ lạy. Mỗi lần dập đầu, bên cạnh lại có một nhà sư gõ chuông một lần. Trước khi quỳ xuống, cô không cầu xin điều gì, chỉ một lòng muốn được chết. Khi đứng lên, trong lòng cô thầm tâm niệm, nếu thật sự có thần linh, liệu có thể chỉ cho cô con đường lầm lạc, dạy cô làm sao để bước tiếp về phía trước?
Ra khỏi điện, những nhà sư kia vẫn đang niệm kinh, nghe mà tĩnh tại. Cô ngước lên, vô thức nhìn thấy có một phiến lá vàng từ trên cành cây bay xuống, hết chiếc này tới chiếc khác, chao đảo trong gió thoảng, cuốn bay góc áo cà sa của chúng tăng nhưng chúng tăng không có cảm giác gì, tựa như những cây tùng, cây bách bất động dưới gốc cổ thụ.
Khoảnh khắc đó, Cố Sơ dừng bước, đứng lặng trước điện, đưa mắt nhìn theo chiếc lá. Lá cây cổ thụ che khuất cái chói chang của mặt trời, quầng sáng nhàn nhạt hắt xuống từ giữa những kẽ hở. Rõ ràng là ngày hè vậy mà lá cây lại úa vàng, bay lượn giữa màu xám của cà sa. Cảnh tượng này quá đỗi chấn động.
Và cũng chính trong giây phút ấy, cuối cùng Cố Sơ cũng hiểu.
Mùa hạ vốn dĩ phải tốt tươi nhưng vẫn sinh ra lá vàng, đây gọi là thế sự vô thường, không có gì là tuyệt đối, con người cũng không thể can dự, đây vốn giống như một chuyện mà người ta đành bó tay. Nhưng lá vàng nhẹ bay, chúng tăng vẫn lễ Phật tụng kinh như thường, không bị quấy nhiễu. Lá cây và người, một động một tĩnh trở thành cảnh sắc tuyệt vời nhất. Thế nên Cố Sơ đã hiểu ra. Con người ta kỳ thực không phải là vạn năng, gặp phải khó khăn, khi xảy ra những tình huống không thể xoay chuyển, người ta chỉ có thể thuận theo tự nhiên, một lòng làm tốt việc của mình, vậy thì kết quả biết đâu sẽ khác, giống như câu chuyện ‘tái ông thất mã, chưa biết là phúc hay họa’.
Cô không thể chết, cũng không thể cứ buông thả bản thân như vậy. Cô còn trẻ, còn một người em gái đang đợi mình.
Nghĩ thông suốt trong khoảnh khắc đó, Cố Sơ liền chạy về nhà.
Trong nhà không có người lớn, chỉ có mợ và Hứa Đồng có thể giúp cô đang lo việc hậu sự cho mẹ, còn lại mình Cố Tư non nớt đang gào khóc ầm ĩ. Sao nó lại không tuyệt vọng chứ? Sau khi phát hiện mình bị chị gái bỏ lại nhà. Cố Sơ kìm nén đau thương, tiến tới ôm lấy Cố Tư. Cố Tư khóc lóc nói: “Chị không thể bỏ mặc em, sau này chị đừng bỏ rơi em, không quan tâm tới em.”
Cố Sơ đã thề rằng cả đời này cô cũng sẽ không bỏ rơi Cố Tư.
Cô cùng Cố Tư dành cả một buổi tối để dọn dẹp nhà cửa. Hôm sau khi tỉnh dậy, cô dắt tay Cố Tư tới tiệm nhỏ ăn cơm. Lúc ăn cơm, Cố Tư đỏ mặt nói: “Khó ăn chết đi được.”
Thật ra Cố Sơ cũng cảm thấy khó nuốt. Kể từ ngày đó, dù có bận rộn, có mệt mỏi tới đâu cô cũng đích thân nấu nướng, làm cho mình ăn, cho em gái ăn.
Cố Tư từng hỏi cô: “Chị, hôm đó chị đã đi đâu?”
Đến tận bây giờ cô vẫn không nói cho Cố Tư mình từng muốn chết nhưng lại nói với con bé rằng: Chúng ta phải kiên cường sống tiếp.
Không sai, muốn được chết thật đẹp thì phải sống thật tốt.
Cố Tư hỏi: Chị, chị không đau lòng ư?
Đau chứ.
Chính vì quá đau nên cô mới muốn chết.
Nhưng cô lại nói với Cố Tư: Vì vẫn còn có em nên chị không đau lòng.
Vì vậy bao năm nay, Cố Sơ vẫn luôn vùi đầu làm chuyện mình cần làm, đúng là cô sống dè dặt, thận trọng nhưng mỗi ngày cô đều cảm thấy mình không sống hoài, sống phí. Cô có rất nhiều, rất nhiều việc để làm, làm việc kiếm tiền, chu cấp cho em gái ăn học, còn phải trả hết nợ. Cô còn phải tiết kiệm làm của hồi môn cho em gái, mong là nó sẽ được gả về một gia đình tử tế.
Tình yêu đối với Cố Sơ quá đẹp, quá ảo mộng, đã từng có được và cũng không cảm thấy hối hận. Tình yêu đã chết yểu nhưng cuộc sống vẫn phải tiếp tục. Những điều tốt đẹp ấy như thực như mơ, như những cánh hoa rơi lả tả, tất cả cất giữ lại trong tuổi thanh xuân. Tuổi xuân của cô đã định trước sẽ sớm tan đi như cánh hoa mùa hạ, vậy thì cô cũng chấp nhận.
Cô đã sớm bóp chết giấc mơ để đối mặt với cuộc đời tàn khốc và hiện thực. Mấy chuyện tình cảm nam nữ đó đã không còn là việc cô có thể dành thời gian chú ý tới, thế nên hay để nó theo gió bay đi…
…
Mưa rơi vào mắt Cố Sơ, có chút lạnh lẽo.
Cô bước nhanh vài bước, rẽ vào ‘đường du lịch’.
Đường du lịch là con đường cổ nổi tiếng ở Quỳnh Châu, được biết đến với đường đá ngàn năm và những công trình cổ còn sót lại từ thời Đường Tống. Hiện nay, đường du lịch đã trở thành một trong những thắng cảnh chắc chắn phải ghé qua của các du khách phương xa. Ở Trung Quốc, những thành phố lớn nhỏ đều không thiếu các con đường cổ, sau đó bị đồng hóa thành những con đường thương mại. Cũng may đường du lịch có sự kết hợp cổ kim, trở thành một mảnh đất của giai cấp tiểu tư sản.
Nơi đây có một số cửa hàng nhưng đa số đều được mở bởi những thanh niên ra nước ngoài du học rồi trở về. Họ có tư tưởng tiến bộ, lại kinh doanh có sự kết hợp hài hòa với văn hóa cũ. Quán trà, quán café, quán bar cùng tồn tại. Trên con đường này thi thoảng còn có thể nghe thấy tiếng rao bán trên những con phố cổ mà không hề có cảm giác đối lập.
Mưa bắt đầu lớn lên, rả rích rả rích tưới ướt các mái hiên mọc đầy rêu xanh.
Đường du lịch trong cơn mưa, du khách khá ít, cộng thêm trời cũng đã khá tối nên cả con đường dài trở nên tĩnh mịch hơn rất nhiều. Cố Sơ vào trú mưa dưới một mái hiên cũ. Có gió thổi qua, cuốn theo hương hoa thanh nhã. Mũi cô rất tinh, có thể nhận ra đây là hương hoa ngọc lan. Cô kiếm tìm, quả nhiên có một bà lão bán hoa ở một góc phố gần đó. Bà lão trông đã khoảng sáu, bảy chục tuổi, mái đầu hơi bạc được chải gọn gàng. Bà lão mặc một chiếc xường xám có tay màu xanh lam, bên dưới in vàng một bông hoa, dưới chân là đôi giày vải mũi nhọn đế bằng nhạt màu, từ cách ăn mặc có thể đoán là người nho nhã, có giáo dục. Bà không đi rao bán khắp các phố như mọi người mà chỉ yên lặng ngồi trên một chiếc ghế mây màu gỗ thô, trước mặt bày một chiếc bàn qua đầu gối, chiếc bàn được trải vải đỏ, trên lớp vải đỏ bày từng hàng hoa ngọc lan đã được buộc lại bằng dây đỏ, bên kia là một bó hoa dành dành nhỏ xíu.
Bên cạnh chiếc bàn có một bếp lò nhỏ, bên trên đặt một ấm trà, nước nóng trong ấm đang sôi sùng sục. Bà lão rót cho mình một cốc trà, trên đỉnh đầu là mái hiên mạ vàng vừa hay có thể tránh mưa. Bà lão ngồi đó yên lặng nghe tiếng mưa, thưởng thức trà.
Cố Sơ yêu ngọc lan bèn không kìm được lòng mình mà chạy tới, bỏ ra năm đồng để mua một xâu ngọc lan. Bà lão bật cười nói với cô: “Cô bé, nhớ lấy một bông ra, cài lên mái tóc, nó sẽ mang tình yêu tới đấy.”
Tình yêu?
Cô không dám mong ước xa xôi nhưng vẫn ngắt một bông ngọc lan, nhẹ nhàng cài bên tai. Cơn gió khẽ thổi qua, giữa mái tóc lưu lại hương thơm dìu dịu.
Cô chọn một quán café để ngồi trú mưa, gọi một cốc mocha, để mặc cho hương café bay lượn khắp con đường. Quán café mang phong vị cổ xưa, cửa vào hệt một chiếc cổng chào*, từng chiếc ô lớn màu đỏ sậm bảo vệ cho bàn không bị nước mưa ‘tập kích’, đủ để giúp khách hàng có thể thưởng thức những tách café nồng đậm ngoài trời ngày mưa.
Lúc bình thường, Cố Sơ tuyệt đối không dám hoang phí như vậy. Các quán café trong đường du lịch phục vụ chủ yếu cho tầng lớp tiểu tư sản, mà cái giá của họ chính là tiền. Một cốc mocha ở đây được tăng lên hơn năm mươi đồng, mang ra ngoài chợ là đủ ăn cả bữa tối. Nhưng hôm nay cô lại uống dưới ô, nghe mưa rơi, uống café, nhìn những hạt mưa bắn tung tóe lên con đường đá như bị ma ám.
Có lẽ vì cô thật sự thấm mệt, có lẽ vì cô cảm thấy, trên một con đường du lịch dưới cơn mưa nhỏ này sẽ có những cuộc gặp mặt rung động.
Một đôi tình nhân ôm nhau, che ô lướt ngang qua cô. Họ thì thầm to nhỏ, dịu dàng tình cảm. Cố Sơ ngước mắt nhìn bóng hai người họ, bóng hình rất trẻ, giống như học sinh. Chẳng mấy chốc, họ đã đi xa, nhưng tiếng cười ấy như khảm vào tai cô, mãi không thể dứt.
Cố Sơ bất chợt nhớ tới Bắc Thâm.
Đó cũng là một mùa mưa nhiều, nhóm bọn họ đi tới đảo Cổ Lãng*. Tại một quán café ngoài trời trên đường nghiêng, cô và Bắc Thâm ngồi đối diện nhau, cười nói vui vẻ. Cô nói với Bắc Thâm rằng: Con đường đá này cực kỳ giống đường di lịch ở Quỳnh Châu quê em, nhưng mà phong cảnh ở đường du lịch còn đẹp hơn, đẹp tới mức cả rêu xanh trên mái hiên cũng khiến người ta yêu.
* Đảo Cổ Lãng là một hòn đảo thuộc khu Tư Minh, thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Hòn đảo này còn được gọi với tên ‘Công viên trên biển’, ‘đảo Dương Cầm’…
Bắc Thâm hứng thú nói: Vậy lần sau chúng ta sẽ uống café trong đường du lịch.
Hôm đó Cố Sơ đã kể cho anh nghe rất nhiều điều về Quỳnh Châu, con người Quỳnh Châu, phong cảnh Quỳnh Châu…
Cô cũng mơ ước có một ngày được dẫn Bắc Thâm tới đường du lịch, tốt nhất là vào mùa mưa. Cô và anh sẽ che chung một chiếc ô, nước mưa khe khẽ rơi xuống mặt ô, trong thế giới nhỏ bé đó, họ chỉ có nhau. Hai người họ sẽ đi từ đầu tới tới đầu kia con đường du lịch, sau đó ngồi trong quán café ngoài trời, trong bầu không khí mát mẻ vẫn nồng đậm hương café. Cô và anh nhàn nhã thưởng thức ánh nắng chiều trên đường du lịch, nói về lý tưởng, mơ mộng tương lai.
Tương lai của cô và anh.
Những tưởng tượng quá đẹp đẽ rồi sẽ mang tới cô quạnh, giống như giờ phút này đây, Cố Sơ nhìn chiếc ghế trống trải trước mắt mà trái tim đau đớn. Trong mơ hồ, dường như cô đã đợi rất lâu, cứ ngồi đợi mãi như thế, chưa bao giờ rời đi. Chờ đợi một người, đợi một chuyện tình hoặc có lẽ đợi một phần kỷ niệm.
Nhưng đúng lúc này, chiếc ghế trống trước mặt bị một bóng hình chiếm trọn.
Người đàn ông gập chiếc ô trong tay lại, đặt ở bên cạnh, giống như một người cô đã chờ đợi rất lâu cuối cùng cũng tới. Anh ngồi xuống đối diện với cô, nhẹ nhàng giơ tay lên, giọng trầm ấm, êm ru: “Ông chủ, một ly café kiểu Mỹ.”
Cố Sơ giật mình vì giọng nói ấy, ngước mắt lên. Trong khoảnh khắc, cô như nhìn thấy Bắc Thâm.
Anh vẫn chỉ là một chàng trai với chiếc áo phông trắng rộng rãi cùng chiếc quần bò cũ, lúc nói chuyện thì uể oải sau đó lại giơ tay quẹt lên mũi cô một cái rồi nói: Anh biết là anh rất đẹp trai rồi, nhưng em có cần nhìn anh ngây ngốc thế không?
Cố Sơ muốn khóc lắm, thật đấy.
Nhưng người đàn ông đối diện bỗng lên tiếng: “Dự báo thời tiết đã nói hôm nay có mưa, sao ra ngoài không mang theo ô?” Thấy cô đờ đẫn, anh lại nhíu mày, thấp giọng: “Tôi nói cô có nghe thấy không đấy?”
Cố Sơ giật mình, lúc này mới nhìn rõ người đàn ông trước mắt.
Anh không phải Bắc Thâm, không phải chàng trai trong chiếc áo phông trắng. Người trước mặt ăn vận rất chỉnh tề, mỗi một độ cong, đường may đều có thể nhận ra là một tác phẩm tinh xảo. Quần Âu, giầy da, tuy gần ngay trước mắt nhưng quá cao quý, xa vời, làm gì có hình bóng của một chàng trai? Anh cũng không trêu chọc hỏi cô vì sao cứ nhìn anh ngây ngốc mà đang nhìn cô với vẻ nghiêm nghị, thậm chí là bất mãn với vẻ thẫn thờ của cô.
“Giáo… sư Lục!” Cô lắp bắp, một lúc lâu sau mới nói tiếp: “Sao anh lại ở đây?”
Lục Bắc Thần không thỏa mãn sự tò mò của cô mà hỏi ngược lại: “Chẳng phải cô về nhà sao?”
Bao nhiêu kỷ niệm quá khứ đều vì sự xuất hiện của người đàn ông này mà tan biến. Cố Sơ cũng nhanh chóng tìm lại được lý trí, chỉ vào ô: “Tôi đang trú mưa.”
Lục Bắc Thần chăm chú nhìn cô một lúc, không nói gì mà dựa người ra sau ghế, nhìn bốn phía xung quanh.
“Đây là lần đầu tiên anh tới Quỳnh Châu ạ?”
“Ừm.”
“Con đường này rất nổi tiếng, rất nhiều du khách khi tới Quỳnh Châu đều phải tới đây dạo bộ. Nó là…”
“Tôi không phải du khách.” Lục Bắc Thần ngắt lời cô.
Cố Sơ ngừng lại. Cũng phải, anh tới đây làm việc. Người như anh chắc là cũng thấy chướng mắt cái nơi bé nhỏ này.
Cứ thế, cả hai đều trầm mặc, chỉ còn tiếng mưa tí tách rơi trên con đường đá. Nhưng sự trầm mặc ấy không dài. Chẳng mấy chốc, nhân viên quán đã bưng một cốc café kiểu Mỹ tới, đặt trước mặt Lục Bắc Thần rồi hỏi: “Anh còn cần gì không ạ?”
Lục Bắc Thần đưa mắt nhìn Cố Sơ. Cố Sơ hiểu ý anh, lập tức lắc đầu: “Tôi uống chút café là được rồi.” Hơn nữa cô cũng đang định về.
Vậy mà Lục Bắc Thần lại nói với người phục vụ: “Một phần tiramisu.”
“Được ạ, phiền anh đợi một lát.”
Cố Sơ thấy thế cũng biết mình không đi nổi nữa, nghĩ bụng lát nữa đợi anh ăn xong sẽ lập tức chuồn lẹ. Tiramisu được đặt trong chiếc đĩa vàng tinh xảo, bên cạnh có hai chiếc dĩa nhỏ, được đồng thời bê lên. Điều khiến Cố Sơ bất ngờ là Lục Bắc Thần đẩy thẳng chiếc bánh tới trước mặt cô.
“Cái này…”
“Ăn đi.” Anh lãnh đạm nói.
“Không đâu, tôi không…”
“Đã gọi rồi.” Anh nhắc nhở.
Cố Sơ không thể chối từ, đành cầm dĩa lên, cúi đầu ăn. Cô ăn không mấy tập trung, bánh gato vào miệng cũng nhạt thếch. Tuy không ngước mắt lên nhưng cô luôn cảm thấy người đàn ông đối diện vẫn đang nhìn mình, cảm giác này kỳ lạ vô cùng. Thực sự không nhịn nổi nữa, cô ngước nhìn lên. Không sai chút nào, anh đang nhìn cô.
“Giáo sư Lục, hay là anh ăn đi ạ.”
Nhưng Lục Bắc Thần lắc đầu: “Tôi không thích đồ ngọt.”
Điểm này rất giống Bắc Thâm, chỉ có điều năm xưa, cô ép Bắc Thâm phải ăn quá nhiều đồ ngọt. Anh khóc ăn, cô liền khóc lóc, ỉ ôi, giãy đành đạch.
“Oh…” Cô không biết còn có thể nói gì, không thể nói với anh: Hay là chúng ta cùng ăn đi?
Vì anh đâu phải Bắc Thâm…