Hôm Sở Kiều đến cao nguyên Thượng Thận là một ngày vô cùng quang đãng. Tuy chuẩn bị sang năm nhưng trời lại trong xanh, mượt mà như hồ nước đương xuân, trải dài không một bóng mây. Từng đàn chim nhạn bay về phía Nam, nắng ấm óng ánh mịn màng như tơ phủ xuống khắp nơi. Trên đồng tuyết trắng xóa, một đoàn người ngựa nối đuôi nhau đi thành hàng, nhân số khoảng hơn hai ngàn kéo thành một đường ngoằn ngoèo.
Hiện đã là những ngày cuối năm 776 theo lịch Bạch Thương, chỉ còn nửa tháng nữa thôi là qua năm mới nên trên đường có rất nhiều đoàn thương lữ ngược xuôi nam bắc, không ngại chiến tranh nguy hiểm cố cầu phú quý. Bắc Yến đã bắt đầu phát triển buôn bán, cho dù biên cảnh đang trong chiến hỏa thì chuyện trao đổi hàng hóa vẫn không gián đoạn. Nhưng cũng có thương nhân nội địa chọn tuyến đường đi Nam Cương tiến vào Bắc Yến để an toàn hơn.
Sở Kiều cởi mũ lông trùm đầu xuống, ngửa mặt lên nhìn tầng không xanh biếc, ánh mắt trong suốt như nước. Thoáng cái đã qua một năm, thiếu nữ ngày xưa cao thêm một chút, đường nét mặt cũng thêm tinh xảo thanh tú, mái tóc đen mượt được búi cao, người khoác áo lông xanh nhạt, cưỡi trên chiến mã toàn thân đỏ hồng.
Cát Tề ở hàng đầu thúc ngựa chạy đến bẩm báo với nàng: “Đại nhân, thống lĩnh Hạ Tiêu truyền tin nói tối nay chúng ta sẽ đóng quân nghỉ ngơi dưới chân núi Mân Tây, thống lĩnh đã dẫn đội tiên phong đi trước chuẩn bị rồi.”
Sở Kiều nhẹ gật đầu, trên không trung chợt vang lên tiếng chiến ưng rít dài, nàng ngẩng lên nhìn, ánh mắt trở nên xa xăm.
Qua khỏi núi Mân Tây là bình nguyên Hỏa Lôi, phía trước chính là phòng tuyến Tây Bắc mà Bắc Yến vừa thu tóm được, nơi từng thuộc quốc thổ Đại Hạ nay đã nhập vào bản đồ Bắc Yến. Cuộc chiến ở Nhạn Minh Quan thoáng cái mà đã kéo dài suốt một năm.
Trong năm 775, đại lục Tây Mông đã xảy ra rất nhiều chuyện, tất cả sự kiện binh biến và loạn lạc đều trở thành những cột mốc quan trọng trong sách sử.
Sau khi Đại Hạ và Bắc Yến khai chiến, chiến sự còn đang nóng bỏng thì phương Bắc Đại Hạ lần lượt xảy ra loạn dân cùng việc phiên vương nổi dậy, điều này đã ảnh hưởng đến nguồn nhân lực cùng lương thực tiếp tế cho chiến sự ở Tây Bắc của Đại Hạ. Bất đắc dĩ Triệu Triệt đành phải chuyển công thành thủ, liều chết giữ vững Nhạn Minh Quan trong khi chờ đợi tình hình quốc nội ổn định.
Cùng lúc đó, hoàng đế Biện Đường đột nhiên băng hà, thái tử Lý Sách đăng đế vị trong tình cảnh rối ren hỗn loạn. Bị thế lực âm hiểm của hai triều khích bác, Đại Hạ và Biện Đường xảy ra xung đột quy mô nhỏ ở biên giới, nếu không nhờ kịp thời phái Triệu Dương đi biên cảnh dập lửa thì hiện giờ Đại Hạ đã phải cùng lúc đối mặt với cả ba chiến tuyến.
Chỉ trong một năm ngắn ngủi, người đời đều chứng kiến rõ ràng quá trình suy bại của cường quốc quân sự một thời như Đại Hạ, phía Tây thì vô lực đoạt lại Bắc Yến, ở phía Bắc thì vô lực trấn an dân chúng ngừng làm loạn, ở phía Nam thì hoàn toàn không có khả năng khuất phục Biện Đường, ở phía Đông thì lại bị Hoài Tống khống chế về mặt kinh tế. Trên đại lục Tây Mông hiện giờ, đã không còn tình cảnh một quốc gia độc tôn nữa…
Nửa năm trước, dưới chân núi Lạc Nhật, Yến Tuân chính thức đăng cơ, tự lập Bắc Yến thành một quốc gia có chủ quyền riêng, lấy chữ ‘Yến’ làm quốc hiệu, đổi nguyên hiệu thành ‘Sơ Nguyên’. Ngoại trừ Đại Hạ thì cả Biện Đường và Hoài Tống không bên nào có lời dị nghị gì. Cứ như vậy, Yến Tuân đã chính thức trở thành chủ nhân của Bắc Yến, vững vàng ngồi lên vương vị.
Ngày Yến Tuân đăng cơ, Sở Kiều cũng không có mặt. Hôm đó, nàng trốn thuộc hạ, một mình leo lên đỉnh Hồi Sơn. Hành cung Nạp Đạt trên đỉnh Hồi Sơn vốn là do Yến Thế Thành xây cho vương phi Bạch Sanh của mình, dùng đá cẩm thạch trắng như tuyết xây nên. Hành cung nằm chìm trong rừng hoa đỏ vàng đủ loại, nhìn như một bức tranh thủy mặc, an tĩnh không hề vương lửa khói nhân gian. Mái ngói cong cong tô điểm tinh xảo như tiên cảnh cùng tiếng nước chảy róc rách nên thơ đủ để nói rõ vị hiền vương kia yêu thương thê tử mình đến nhường nào.
Sở Kiều ngồi trên đỉnh núi, lắng nghe tiếng hát hào sảng của mục dân chăn gia súc trên bãi cỏ xanh rì, làn điệu du dương uyển chuyển khiến lòng người thật thư thái, mọi sầu khổ như đều tan biến. Nàng nhìn vầng thái dương đang chìm xuống đường chân trời, trong lòng như có dòng nước chảy qua. Dẫu xa cách vạn dặm, núi non trùng điệp cản trở, nhưng Sở Kiều vẫn như có thể nhìn thấy hình dáng người ấy mặc long bào vàng rực ngồi lên vương vị.
Thiếu nữ nhẹ cong khóe môi mỉm cười, ngẩng đầu lên nhìn trời mặc cho gió mát phả lên vầng trán trơn mịn, vạt áo xanh nhạt khẽ lay động. Trong một góc nhỏ tĩnh mịch, hoa sen lặng lẽ nở rộ trong hồ.
Bắc Yến hiện đã không còn như xưa, được Hoài Tống hỗ trợ tài vật, Yến Tuân liên tục chiếm được ưu thế trên chiến trường. Cộng thêm Sở Kiều suốt một năm này không ngừng cải tổ kinh tế nội bộ, trùng tu lại cơ sở vật chất, người thế gian đều có thể nhìn rõ sự thay đổi rõ rệt của vùng đất này. Bắc Yến hôm nay, về mặt vũ khí quân sự đã bỏ xa ba nước còn lại. Dưới sự hướng dẫn của Sở Kiều, bọn họ đã tìm ra và đưa vào khai thác hơn ba mươi quặng mỏ, tiến hành xây dựng thủy lợi, thay đổi phương thức nông canh, biến cao nguyên Thượng Thận và Hồi Sơn thành nơi sản xuất lương thực chủ yếu. Đến mùa thu năm nay thì sản lượng lương thực của Bắc Yến đã nhiều gấp đôi so với những năm trước, quân đội cũng bắt đầu triển khai phương pháp tự cung tự cấp. Bọn họ còn tích cực phát triển trung tâm chữa bệnh, mở trường quân sự, mở rộng ngoại giao buôn bán với cả Hoài Tống và Biện Đường, đời sống người dân càng lúc càng sung túc.
Sở Kiều cũng bắt đầu hiểu ra, một dân tộc bị che mắt bởi chế độ phân biệt giai cấp quá nhiều năm, một khi được khai sáng sẽ như miếng bọt biển khổng lồ hút sạch mọi tri thức cần thiết, trở mình với tốc độ nhanh nhất. Bắc Yến nằm trên thương đạo nối liền hai đầu Tây Bắc đại lục, diện tích lãnh thổ rộng lớn, đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho cả chăn nuôi lẫn trồng trọt. Không những nằm giữa mạch giao thông xuyên suốt đại lục, vùng đất này còn sở hữu dồi dào tài nguyên khoáng sản, người dân lại thật thà chuyên cần.
Sinh sống ở thời hiện đại nhiều năm nhưng cho tới giờ Sở Kiều vẫn chưa từng thấy người dân nơi nào lại ủng hộ bất cứ kế hoạch gì chính quyền đề ra một cách nhiệt tình sốt sắng đến như vậy. Bọn họ không cố chấp báo thù, không đòi lương bổng, cũng không có nhiều yêu cầu với chất lượng cuộc sống, ngươi chỉ cần hô một tiếng thì sẽ lập tức có hơn mười mấy ngàn sức lao động miễn phí chạy đến hưởng ứng. Chuyện như vậy đời nào có thể xảy ra ở hiện đại chứ.
Sở Kiều không khỏi cảm khái, Bắc Yến có đầy đủ điều kiện tiên quyết của một cường quốc, nếu không phải bị chìm trong chiến loạn kéo dài, e rằng vùng đất này đã trở thành thế lực mạnh mẽ nhất đại lục từ lâu rồi.
Tây Nam trấn phủ sứ đã bị bỏ phiên hiệu, không còn thuộc biên chế quân Bắc Yến chính quy nữa. Dựa theo cảnh sắc non nước tú lệ dưới chân Hồi Sơn, Tây Nam trấn phủ sứ được đổi thành Tú lệ quân, Sở Kiều cũng được dân chúng Bắc Yến xưng là Tú Lệ đại nhân. Biên chế của Tú lệ quân hiện tại đã lên đến gần chín ngàn người.
Hôm nay Tú lệ quân nhận nhiệm vụ áp tải lương thảo đến tiền tuyến, thấy trời đã sập tối nên Hạ Tiêu mới quyết định dừng chân cho binh sĩ nghỉ ngơi một chút.
Trước lúc trời tối hẳn đoàn người rốt cuộc cũng chạy đến chân núi Mân Tây, nội cảnh Bắc Yến đa phần đều là bình nguyên, núi Mân Tây có tiếng là núi nhưng kỳ thực chỉ là một hòn núi nhỏ cao không đến trăm mét. Lúc bọn Sở Kiều chạy đến thì Hạ Tiêu đã dẫn đội tiên phong dựng xong lều trại, thức ăn cũng đã được chuẩn bị xong. Hớp một ngụm canh thịt nóng hổi, mệt mỏi cả ngày cũng vơi đi mấy phần.
Ban đêm ở Bắc Yến luôn là thời điểm đẹp nhất, hôm nay là mười lăm nên trăng vừa tròn vừa sáng, phản chiếu đồng tuyết sáng rực, nhánh sông Xích Thủy sau núi đã đóng băng từ lâu, lóng lánh như mặt gương. Hôm qua lúc đi ngang thành Mã Vĩ, thành thủ đại chân có nằng nặc bắt Sở Kiều nhận lễ, từ chối mãi không được, nàng đành tùy tiện chọn đại một cái hộp trong đống lễ vật, hôm nay mở ra thì mới thấy là một chiếc áo lông chồn thượng hạng. Chiếc áo này toàn bộ đều được may bằng lông đuôi hoàn mỹ của chồn tuyết, sờ rất mịn, vừa nhìn liền biết là vật quý khó có được.
Trong lều có đến bốn chậu than cháy hừng hực nên hơi oi bức, Sở Kiều phủ thêm áo lông rồi bước ra ngoài, đi thẳng đến dưới chân núi. Nơi này ngoại trừ vài gốc mai già mọc trên đỉnh núi thì xung quanh đều trắng xóa màu tuyết, mai đỏ nở rực rỡ thấp thoáng trong trời tuyết nhìn vô cùng diễm lệ nhưng cũng thật thê lương.
Sở Kiều thong thả cất bước, thân ảnh yêu kiều đi giữa ánh trăng trong trẻo, mênh mông như nước. Dân địa phương dẫn đường cho đội quân có nói trên đỉnh núi này có miếu thờ của nữ thần Bắc Yến, là do tổ tiên Bắc Yến dựng nên. Trải qua mấy trăm năm mưa gió, ngôi miếu này vẫn đứng sừng sững ở đó, như đang dõi mắt trông chừng cả lãnh thổ Bắc Yến.
Sở Kiều theo đường núi gập ghềnh đi từng bước một hướng về phía đỉnh núi, tuyết đọng dày tận gối nên mất hơn một canh giờ (2 tiếng) nàng mới lên được đỉnh núi.
Thần điện được xây hoàn toàn bằng đá xà cừ, không quá to, cao chỉ khoảng bốn người lớn, có hai cửa vào, một ở hướng Đông và một ở hướng Tây. Sở Kiều đang đứng ở cửa Tây, đập vào mắt nàng là một tượng thần cao chạm nóc, gần như chiếm hơn nửa diện tích điện. Bên trong điện hết sức hoang tàn, rất nhiều chỗ đã bị lật nóc mặc cho tuyết rơi vào, bụi và mạng nhện giăng khắp nơi, vô cùng hỗn độn. Chỉ có tượng thần kia là vẫn sừng sững đứng đó, đường nét được khắc họa rất tinh xảo. Nhìn mặt pho tượng, Sở Kiều như thoáng thấy được người phụ nữ trên đài Cửu U nhiều năm trước, mẹ của Yến Tuân cũng có ánh mắt trầm tĩnh, dịu dàng tựa nước giống như vậy. Phần bụng của pho tượng hơi nhô lên sau làn váy, hiển nhiên là khắc họa một nữ nhân đang mang thai.
Lúc còn nhỏ, nàng có nghe Yến Tuân kể qua, người Bắc Yến tôn thờ nữ thần, có hai dạng, một là Võ thần uy vũ tay cầm búa, tượng trưng cho chinh phục cùng giết chóc. Hai là Mẫu thần hiền dịu thân mặc nhuyễn giáp màu lục, tượng trưng cho sự bảo vệ cùng sinh nở. Hôm nay được nhìn thấy, quả nhiên là như vậy.
Đã thấy được Mẫu thần nên Sở Kiều cũng muốn sang nhìn Võ thần một thể, nhưng vừa nhấc nhân lại chợt nghe được tiếng bước chân rất khẽ.
Gió lớn từ cửa Tây xẹt qua đại điện thổi ra cửa Đông, Sở Kiều cứng người, hơi cau mày, đưa tay sờ lên trường kiếm Phá Nguyệt đeo bên hông. Nhưng nàng còn chưa rút ra thì thân kiếm đột nhiên khẽ run, tiếng rền cộng hưởng như rồng ngâm vang vọng trong đại điện.
Tim Sở Kiều hơi nảy lên, trong đầu không khỏi nảy lên một ý niệm khiến nàng vô thức dời bước đi đến tượng thần bên trái, sau đó… rón rén thò đầu ra.
Bên ngoài tuyết bay tán loạn, hàn mai nở rộ, Sở Kiều chỉ nhìn thoáng qua một lượt liền bị hình ảnh trước mắt làm cho ngây người.
Dưới chân Võ thần, nam nhân mặc áo choàng lông màu bạc, đầu đội mũ trùm, toàn thân như hòa làm một với màu tuyết. Phong thái tao nhã vẫn như trước, tròng mắt đen thăm thẳm như hồ nước, môi đỏ tựa son, hắn vẫn xuất chúng, vẫn tuấn lãng như vậy. Một trận gió thổi qua, cánh mai ngoài điện theo gió bay vào, rơi trên đầu vai hắn. Dưới ánh trăng sáng tỏ, thời gian như dừng lại.
Nam nhân dường như cũng hơi sững sờ, không ngờ lại gặp nàng ở đây. Bốn mắt nhìn nhau, năm tháng trôi qua như dòng nước chảy không ngừng, khuôn mặt trong trí nhớ dần rõ ràng, cuối cùng hòa làm một với thân ảnh trước mắt. Vận mệnh quả thực rất thần kỳ. Hai người không ai nói gì, mà cũng không biết nên nói gì.
Một chú chim non run rẩy bay vào điện trốn tuyết, chú chim đáp xuống trên vai tượng nữ thần, xù lông rỉa cánh rồi dùng đôi mắt linh hoạt bé xíu như hai hạt đậu nhìn hai người bên dưới, chíp chíp kêu lên hai tiếng.
Ánh mắt nam nhân như xuyên thấu làn sương đêm trong điện nhìn về phía thiếu nữ, mi tâm khẽ chau, hắn hé môi muốn nói nhưng cuối cùng vẫn không lên tiếng. Ánh mắt ấm áp như nước từ ôn tuyền quét qua bờ vai gầy, lướt qua cần cổ thon dài, cuối cùng dừng lại ở tròng mắt đầy vẻ kinh ngạc của thiếu nữ. Một lúc lâu sau, hắn bình tĩnh thu hồi ánh mắt, nhẹ xoay người đi về phía cửa điện, vạt áo lông quét qua khiến bụi đất bay lên rồi rơi xuống trên mũi giày trắng như tuyết.
“Mấy ngày tới đất liền sẽ có bão tuyết, đi đường nhớ cẩn thận một chút.” Gia Cát Nguyệt đi đến cửa thì sau lưng chợt vang lên tiếng của Sở Kiều, giọng nàng rất bình tĩnh, nồng hậu ấm áp như vị trà Long Tỉnh thượng hạng của Biện Đường, ẩn chứa hơi thở ngọt ngào.
Nam nhân không khỏi dừng bước, quay đầu lại, hơi nhướng mày, “Không lo lắng sao?”
Sở Kiều thành thật gật đầu, “Lo chứ, nhưng ta không có lựa chọn khác.” Thiếu nữ bất đắc dĩ nhún vai, ra vẻ rất lo lắng, nhưng lời nói ra lại dịu dàng như gió xuân.
Trong mắt Gia Cát Nguyệt hiện lên vẻ ấm áp, hắn bình thản nói: “Yên tâm, lần này ta cải trang tiến vào địa phận Bắc Yến không liên quan đến chiến sự, sẽ không làm gì bất lợi cho các người.”
“Vậy thì tốt.” Sở Kiều mỉm cười, “Có gì cần ta hỗ trợ không?”
“Có.” Gia Cát Nguyệt thành thật gật đầu.
Sở Kiều sửng sốt, không ngờ hắn sẽ nói có, vội vàng hỏi: “Là chuyện gì?”
“Chớ báo cho người khác biết hành tung của ta.”
Sở Kiều trố mắt, không ngờ Gia Cát Nguyệt cũng biết nói đùa. Nàng ngây ra một lúc lâu mới buột miệng nói: “Đó mà gọi là giúp à? Sao ta có thể làm vậy chứ?”
Chú chim lại đột nhiên chíp một tiếng rồi bay tới đống than cháy trong góc. Đầu mũi chợt ngửi thấy mùi thức ăn thơm lừng, Sở Kiều nhấc bước đi ngang qua tượng thần, nhìn thấy trong góc đại điện gần cửa có một chiếc án* bằng gỗ lim khắc hoa, trên án có một nồi đồng nhỏ rất tinh xảo, được đặt trên một lò than nhỏ. Nước canh trong nồi đang sôi lục bục, mùi thơm nức mũi tỏa ra bốn phía, trên án còn có bày rau cải cùng thịt dê tươi, cạnh đó là một bầu rượu bát giác bằng bạc.
*Án = là một loại bàn rộng, chân thấp. Người xưa thường ngồi trên đó thưởng trà ngắm hoa.
Sở Kiều nhoẻn môi cười, chỉ vào án hỏi Gia Cát Nguyệt: “Ngươi định đi thật à? Vậy mấy thứ đó thuộc về ta đấy.”
Gia Cát Nguyệt suy nghĩ một chút, bất chợt nhấc chân đi đến bên án, vén vạt áo ngồi xuống, thản nhiên nói: “Đừng mơ.”
Gia Cát Nguyệt không thẹn là xuất thân từ thế gia đại tộc, lớn lên từ trong vàng ngọc gấm vóc, cho dù đang ở ngoài, hoàn cảnh xung quanh còn như vậy nhưng cũng không khiến yêu cầu của hắn giảm sút, cái ăn cái mặc luôn phải hết sức cầu kỳ tỉ mỉ. Thịt dê được thái lát thật mỏng, cuốn thành từng cuộn tròn để một bên, rau cải cũng rất tươi, trên lá rau vẫn còn ướt nước, cũng chẳng rõ làm sao mà giữ được như vậy. Đũa làm bằng bạc nguyên chất, phía đuôi có khắc hoa văn tinh xảo. Gia Cát Nguyệt gắp một lát thịt dê thả vào trong nồi đồng, miếng thịt lập tức bị nấu tái, lẫn vào trong nước canh sôi ục ục, khói trắng bốc lên bay lãng đãng. Ở nơi giá lạnh mà được ăn món này, quả thực chính là một loại hưởng thụ.
Chén đũa trên án không chỉ có một bộ, Sở Kiều vẫn còn nhớ rõ thói quen của Gia Cát Nguyệt. Khi còn ở Thanh Sơn viện, tuy hắn luôn ăn cơm một mình nhưng trên bàn bao giờ cũng có bày rất nhiều bộ chén đũa, giống như đang cùng ăn với nhiều người khác vậy.
Sở Kiều cầm lấy bầu rượu rót cho hắn một chén rồi rót cho mình một chén.
Gia Cát Nguyệt nhìn thấy thì hơi cau mày, hỏi: “Chẳng phải từ trước đến giờ nàng không uống rượu sao?”
Bàn tay cầm chén rượu của Sở Kiều hơi run lên, hắn nói rất đúng, trước kia nàng không bao giờ uống rượu, từ khi nào mà nàng cũng bắt đầu thích thứ chất lỏng cay nồng khiến tâm trí người uống mơ hồ này vậy?
Sở Kiều từ tốn ngước mắt lên bình tĩnh nhìn Gia Cát Nguyệt, nâng chén nói: “Mượn hoa hiến Phật*, mời ngươi một chén mà thôi.”
*Mượn hoa hiến Phật = mượn hoa của người khác để dâng cho Phật, đại loại ý chỉ ‘của người phúc ta’
Gia Cát Nguyệt không nâng chén, chỉ dùng ánh mắt sâu thẳm lẳng lặng đánh giá nàng.
Sở Kiều ngửa đầu uống cạn chén rượu, thản nhiên nói: “Một chén này là để cảm tạ ơn đức nhiều lần không giết.”
Một năm không gặp, thiếu nữ trước mặt dường như có cao thêm một chút, ngũ quan thanh tú, mày mục tinh tế, hai mắt to tròn long lanh như được phủ sương khiến người khác nhìn không thấu. Gia Cát Nguyệt không hề đụng đến chén rượu trước mặt, chỉ cầm đũa bỏ thêm thịt vào nồi, rũ mắt nói: “Ăn thì ăn, nói nhiều như vậy làm cái gì? Đọc diễn văn à?”
Sở Kiều cau mày cự nự: “Trước khi ăn cũng phải có dạo đầu chứ.”
Gia Cát Nguyệt khẽ hừ mũi, “Ứng phó với đám lão già ở đế đô đã đủ mệt rồi, không hơi đâu ở đây đôi co với nàng.”
Sở Kiều nhỏ giọng lầm bầm mấy tiếng rồi cũng cầm đũa gắp thịt ăn. Gia Cát Nguyệt thấy nàng ăn vội như vậy thì nhắc: “Cẩn thận nóng.” Hắn dứt lời thì Sở Kiều đã xuýt xoa một tiếng, dĩ nhiên là vừa bị bỏng miệng.
Gia Cát Nguyệt nhướng mày, gọn lỏn buông ra hai chữ: “Đáng đời.”
Đầu lưỡi bị nóng nhưng Sở Kiều vẫn cảm nhận được vị thịt rất ngon. Hai người ngồi vừa ăn vừa nói chuyện, ban đầu còn nói tán gẫu cho có lệ, dần dần lại tập trung ăn, chỉ chốc sau thì dĩa thịt dê đã hết sạch. Sở Kiều vẫn còn thèm thuồng khua đũa trong nồi tìm kiếm, cuối cùng ăn sạch sẽ tất cả rau củ còn lại trong nồi.
“Nghe nói ngươi được thăng cấp? Chúc mừng chúc mừng.”
Gia Cát Nguyệt bình thản nói: “Chẳng có gì to tát, giết vài ngàn quân Bắc Yến đổi chút chiến công mà thôi. Nghe nói nàng cũng được thăng quan?”
“Cũng chẳng có gì to tát, ta cũng nhờ dọn sạch quân Hạ còn sót lại ở Mỹ Lâm Quan mới được thăng nửa cấp mà thôi.” Sở Kiều liếc hắn một cái rồi hỏi tiếp: “Nghe nói ngươi bây giờ đã làm tới chức đô đốc tuyến Tây của Đại Hạ, không còn dưới trướng Triệu Triệt nữa rồi?”
“Nhờ hoàng thượng không chê công hèn sức mọn mà thôi, không dám không dám.” Gia Cát Nguyệt cũng thản nhiên thêm vào: “Nghe nói Tây Nam trấn phủ sứ bị xóa phiên hiệu, không còn trong biên chế quân chính quy, bị hạn chế sử dụng vũ khí rồi?”
“Tú lệ quân hiện giờ chỉ là một phần của đội trị an địa phương, bị hạn chế vũ khí cũng là lẽ thường. Bất quá, ta nghe nói Ngụy phiệt vừa phái Ngụy Thư Diệp đến Nhạn Minh Quan, dường như là muốn chia quyền với ngươi?” Sở Kiều nhướng mày cười mỉm.
“Muốn là một chuyện, nhưng có làm được hay không lại là chuyện khác. Ta còn nghe nói một trong những nhân vật chủ chốt của Đại Đồng Hành là Ô Đạo Nhai bị cầm chân ở thành Lạc Nhật, ngay cả duyệt binh tiến quân đi tuyến Đông cũng không tham gia.”
“Tổ chức nào cũng có chút lục đục nội bộ, chả phải ngay cả ngươi cũng lên voi xuống chó hết mấy lượt đó sao? Huống chi, có nhiều chuyện chỉ nghe nói thì ai biết được là có chính xác hay không. Cũng ví như, ta nghe nói Triệu Dương đang cố gắng dẹp loạn ở tuyến Nam, sau đó sẽ chen chân tham gia chiến sự ở tuyến Tây, không biết là thật hay giả nữa.”
“Trên đời có câu ‘tam nhân thành hổ’*, quả nhiên không sai. Nghe nói nàng tiến hành cải cách Bắc Yến, mở rộng mua bán, ngay cả thương nhân Đại Hạ cũng lén lút làm ăn với các người, quả thực không đơn giản.”
*Tam nhân thành hổ = Ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật. Một việc, dù cho sai lầm, nếu nhiều người cùng tin là như vậy thì cũng dễ khiến người ta đem bụng tin mà cho là phải. Một chân lý có chứng minh rõ ràng, mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận.
“Bất quá chỉ là trò vặt không đáng kể, ta thì lại nghe nói trong hai trận chiến ở Tào Khâu và Kim Giang, ngươi công phá quân Bắc Yến, bắt giữ toàn bộ tiểu đội thứ 8 gần một vạn quân của binh đoàn số 2, bằng không chúng ta có lẽ đã thừa dịp Đại Hạ bận rộn binh biến ở phía Bắc mà đánh thẳng vào hoàng thành rồi.”
“Đại Hạ dựng quốc hơn ba trăm năm, không thể nói muốn sụp đổ là sụp đổ. Ta cũng nghe nói Khuyển Nhung ở phương Bắc bị chết rét chết đói mấy vạn người, không lo bọn chúng túng quá hóa liều tấn công phía Bắc Bắc Yến sao?”
“Chuyện tới đâu hay tới đó, có lo cũng vô ích, không bằng cứ chuẩn bị sẵn sàng thì hơn. Huống chi, ta cũng nghe nói người Lệ Chân ở phía Đông Bắc Đại Hạ đang xắn tay áo chuẩn bị noi gương Bắc Yến đòi độc lập, ngươi nói xem, liệu bọn họ có thành công không?”
“Nghe nói Vũ cô nương của Đại Đồng Hành cũng bị gạt ra một bên rồi.”
“Nghe nói tháng trước, chỗ trống còn lại của hội trưởng lão Đại Hạ đã được đưa cho Mộ Dung gia ở Hà Tây, quả thật là ba mươi năm Hà Đông ba mươi năm Hà Tây* mà.”
*Ba mươi năm Hà Đông, ba mươi năm Hà Tây: Ngạn ngữ Trung Quốc, sông Hoàng Hà có chu kỳ 60 năm, cứ 30 năm đổi hướng một lần, nếu bên này là phía Tây, thì sau 30 năm, nó đổi thành hướng Đông. Nói sự đời thay đổi.
“Nghe nói Bắc Yến vừa tìm ra một loại nguyên liệu cực kỳ rắn, có thể dùng để rèn vũ khí còn rắn hơn cả thiết, là nàng làm à?”
“Nghe nói Hạ hoàng đã thông qua đạo luật bốn mươi sáu, hạn chế việc mua bán vật liệu rèn vũ khí trên thị trường, còn chuẩn bị dụng binh tấn công Hoài Tống, là do ngươi khởi xướng à?”
“Nghe nói nàng đi chuyến này là để áp tải lương thảo tiếp viện cho đại bản doanh, nếu lương thảo không đến kịp, đại bản doanh chắc chắn gặp khó khăn.”
“Nghe nói ngươi đi chuyến này là để thám thính tình hình mua bán ở cảnh nội Bắc Yến, điều tra các thế lực làm ăn qua lại với Bắc Yến. Sau khi tìm được tất nhiên sẽ thanh tẩy sạch sẽ.”
Tiếng kiếm rung *ong ong* ngân dài rất đúng lúc gián đoạn cuộc nói chuyện của hai người. Hai bảo kiếm đặt cạnh nhau cộng hưởng khẽ rung rung, tựa như ngay cả chúng cũng nhận ra không khí căng thẳng đầy mùi thuốc súng giữa hai chủ nhân. Chú chim nhỏ màu vàng kia đã bay mất dạng từ lâu, bên ngoài tuyết rơi càng lúc càng nhiều. Hai người ngồi đối diện nhau, than trong lò cháy hừng hực, nước canh trong nồi sôi ùng ục, màu ớt đỏ sẫm như máu quân sĩ đổ ra.
Rốt cuộc là lập trường bất đồng hay thân phận đối địch? Chỉ biết là dường như vừa rồi hai người cố tình dùng lời lẽ hằn học như vậy, tựa như muốn nhắc nhở bản thân: bọn họ không phải bằng hữu, bọn họ đều có trách nhiệm riêng của mình.
“Nghe nói, sang năm nàng và Yến Tuân sẽ cử hành đại hôn.” Gia Cát Nguyệt cuối cùng cũng nâng chén rượu đưa lên môi, dáng vẻ lơ đãng như chỉ thuận miệng hỏi mà thôi.
Sở Kiều cũng ngẩng đầu lên, cố bình ổn khí tức hỗn loạn trong ngực, nhẹ giọng nói: “Ta cũng nghe nói, ngươi đã nghị hôn với tiểu thư của phủ Nhạc Hình tướng quân rồi.”
Gia Cát Nguyệt gật đầu, “Ừ, hôn kỳ cũng không còn xa.”
“Mông Điền đã già, thế lực của Nhạc Hình tướng quân trong triều khá vững chắc, ngươi lấy con gái ông ta rất có lợi cho con đường làm quan.”
Gia Cát Nguyệt cười nhạt, nói: “Lần sau gặp lại, có lẽ phải gọi nàng là Yến vương phi rồi.”
Sở Kiều lắc đầu, nghiêm mặt nói: “Bắc Yến đã tuyên bố độc lập, phải là Yến vương hậu mới đúng.”
Gia Cát Nguyệt hừ mũi không đáp, tiếp tục lẳng lặng uống rượu. Gió thổi qua giữa hai người, mang theo khí lạnh như băng. Sở Kiều đưa mắt nhìn Gia Cát Nguyệt, chuyện cũ lại lướt qua trong đầu khiến nàng hơi thất thần, siết chặt chén rượu, không biết phải nên nói gì khác.
“Ta có nhìn thấy hắn.”
“Thấy ai?” Sở Kiều hỏi.
“Là người dẫn dụ ta mang binh đi giết Tây Nam trấn phủ sứ lúc trước.” Gia Cát Nguyệt ngẩng đầu lên, từ tốn nói: “Người tên Trình Viễn, hiện đang tiếp nhận chức vị của Ô Đạo Nhai thống lĩnh binh đoàn số 1, ngoài Yến Tuân ra là người có quyền lực nhất ở Bắc Yến.”
Sở Kiều rũ mắt nhìn xuống, không nói tiếng nào.
Gia Cát Nguyệt nhìn nàng, im lặng suy nghĩ một lúc lâu, sau cùng mới gật đầu, nói: “Lùi về hậu phương là đúng, các thế lực trong quân đội Bắc Yến phức tạp khó lường, vốn không phải là nơi người như nàng nên ở.”
Sở Kiều mỉm cười, “Ừ, một năm qua ta sống rất tốt.”
“Vậy thì tốt.” Gia Cát Nguyệt bật cười, “Bắc Yến Bị kẹt giữa các thế lực không ngừng tranh giành, Đại Đồng Hành lại cắm rễ sâu như vậy, nếu không phải do quân của ta liên tục uy hiếp thì Yến Tuân đã bị phế truất từ lâu. Sau lưng hắn chỉ có một hai người chống lưng cũng chẳng ích gì, tranh đoạt quyền lực là chuyện hiển nhiên. Nàng có thể hiểu rõ thì tốt.”
Sở Kiều gật đầu, “Ta hiểu, muốn đạt được mục đích luôn phải trả giá rất nhiều. Chút khó khăn này còn chưa đủ để quật ngã ta.”
Gia Cát Nguyệt cười cười không nói, cổ áo viền lông cao tận cằm, phần cằm đã lún phún râu. Nam nhân này vẫn luôn tuấn mỹ như vậy, vẻ tuấn mỹ của hắn thậm chí còn lẫn chút tà mỵ, cứ như vậy thản nhiên ngồi trước mặt Sở Kiều, nói những lời mà chỉ hai người nghe hiểu mà thôi.
Sở Kiều đột nhiên cảm thấy người này hiểu nàng rất rõ. Có nhiều chuyện, Yến Tuân không hiểu, thậm chí ngay cả chính nàng cũng không nguyện đối mặt, nhưng hắn lại có thể qua tin tức do thám mà nhạy cảm phán đoán được tường tận mọi chuyện, bao gồm mộng tưởng của nàng, niềm tin và hy vọng của nàng, cả vui vẻ và mọi phiền não nàng từng trải qua…
Nam nhân trước mặt nàng quả thực là một người đáng sợ. Hắn có sự mẫn cảm khó ai bì kịp trong chiến đấu, có võ nghệ siêu cường cùng thủ đoạn thâm sâu, lại có gia tộc mạnh mẽ chống lưng. Thế nhưng, đã nhiều năm như vậy mà đến giờ Sở Kiều vẫn không biết cái gì mới là điều hắn muốn?
Yến Tuân một lòng muốn phục thù, muốn lật đổ Đại Hạ xưng bá thiên hạ. Triệu Triệt muốn đế vị, muốn trở thành minh quân có thể giúp nước giàu binh mạnh. Lý Sách cũng muốn thâu tóm Đại Hạ, giành lại lãnh thổ bị mất, hưng chấn địa vị của Đại Đường. Nhưng còn Gia Cát Nguyệt, rốt cuộc thì nam nhân này muốn gì? Không ai biết và cũng không ai nhìn thấu được. Mỗi lần nhìn vào đôi mắt đen như mực kia, Sở Kiều luôn cảm thấy bản thân dần như bị cuốn vào. Ánh mắt hắn thật giống như một xoáy nước khiến nàng trầm luân không thể dứt ra, ngoài mặt thong dong hững hờ nhưng trong lại nóng rừng rực như lửa.
Nhưng dường như… hắn có từng nói hắn muốn cái gì… Trong khung cảnh lất phất mưa bụi ở Biện Đường, nam nhân này từng ôm chặt nàng, vứt bỏ mọi kiêu hãnh cùng phẫn nộ trong lòng để nói với nàng: “Ta cũng cần nàng.”
Người như hắn sao có thể thốt ra những lời như vậy? Thế nhưng, câu nói đó cuối cùng đã trở thành ma chướng trong lòng nàng, trở thành nỗi ám ảnh không thể rũ bỏ, trở thành câu hỏi mà nàng vĩnh viễn không cách nào trả lời.
“Gia Cát Nguyệt, trên chiến trường đao kiếm không có mắt, trên triều cũng phong vân khó lường, cẩn thận bảo trọng lấy mình.”
Gia Cát Nguyệt điềm đạm mỉm cười, trên mặt lộ vẻ ôn hòa hiếm thấy, đưa mắt thoáng nhìn tượng Võ thần ngay giữa điện rồi từ tốn nói: “Những thứ đó không đủ làm khó ta.”
Ai cũng có tử huyệt của mình, nhưng tử huyệt của hắn sắp nhanh chóng đổi thành họ của người khác. Đến lúc đó, hắn sẽ không còn tử huyệt nữa rồi.
Gia Cát Nguyệt chậm rãi đứng dậy, ánh trăng phủ lên thân hình cao thon càng tô thêm vẻ tuấn mỹ, như một pho tượng điêu khắc bằng đá cẩm thạch phản chiếu ánh trăng sáng lóa.
Nam nhân lẳng lặng ngẩng lên nhìn tượng Võ thần cao lớn. Pho tượng với dung nhan mỹ lệ trước mặt hắn tỏa ra anh khí sắc bén bức người, giáp trụ trên người pho tượng được điêu khắc từ đá đỏ, năm tháng đã khiến chất đá trở nên sậm màu, mặt đá có vân đỏ li ti nhìn như vô vàn tia máu giao thoa. Võ thần tay cầm búa đứng tựa lưng với Mẫu thần, đôi mắt như có lửa tỏa ra ánh nhìn sắc bén.
Gia Cát Nguyệt chợt hơi thất thần, không rõ cảm xúc xuất hiện trong lòng khi nhìn tượng thần này là gì. Chỉ biết rằng, trong thoáng đó, hắn như xuyên qua pho tượng nhìn thấy được hình ảnh của một người, người đó cũng như Võ thần, có lòng tin mãnh liệt cùng lý tưởng cao thượng, và hắn thì luôn khịt mũi khinh bỉ loại suy nghĩ này. Là một thành viên của thế gia đại tộc, thường xuyên chứng kiến đủ loại đấu đá mưu hại lẫn nhau từ nhỏ, đã sớm tâm niệm nhân sinh tính bổn ác*, mưu tính cùng suy đoán đã trở thành chuyện tất yếu trong cuộc sống, tập mãi cũng thành thói quen như chuyện ăn chuyện ngủ.
*Nhân sinh tính bổn ác (của Tuân Tử) – con người sinh đã ác độc, đối lập với Nhân sinh tính bổn thiện (của Khổng Tử) – con người sinh ra đã có thiện lương sẵn trong lòng.
Nhưng về sau, hắn dần dần mới hiểu được, thì ra con người cũng không chỉ sống vì mình, khi con người có lý tưởng vĩ đại và nỗ lực hết mình vì lý tưởng của bản thân mới là thời khắc đẹp đẽ nhất. Hắn không biết nàng lấy sức mạnh từ đâu, cũng không biết vì sao nàng có thể kiên định như vậy. Nhưng dần dà, từ một người không tin vào vận mệnh, thỉnh thoảng hắn còn thậm chí cho rằng, người có lòng tin mãnh liệt như thế, có lẽ cả ông trời cũng đứng về phía nàng.
Đôi khi, hắn thật hận, cũng thật hổ thẹn đối với tình cảm đã sớm ghim sâu trong tim, chán ghét sự nhu nhược cùng ngu xuẩn của bản thân. Dẫu thế nhưng hắn vẫn không cách nào kháng cự được ý niệm cuồng nhiệt càng lúc càng mãnh liệt trong đầu. Hắn cũng không rõ là bắt đầu từ khi nào, khi đó bọn họ còn nhỏ như thế, khi đó nàng thậm chí còn chưa cao đến thân ngựa, sao hắn lại có thể nảy sinh thứ tình cảm hoang đường đến như vậy?
Thế nhưng về sau, mỗi lần tỉnh giấc nửa đêm, hắn luôn nhớ đến ánh mắt trước khi rời đi của đứa bé gái kia, bất khuất kiên cường và gan dạ như của một chú báo con đang giận dữ, tuyệt đối không chịu khuất phục dưới đòn roi của thợ săn. Hắn nghĩ, mình nhất định đã bị ánh mắt kia mê hoặc, bị mê hoặc bởi niềm tin kiên định của nàng, mê hoặc bởi ánh nhìn sắc bén cùng câu nói luôn lập đi lập lại mỗi khi trùng phùng của nàng: Gia Cát Nguyệt, ngươi hãy chờ đấy!
Chính vì vậy mà hắn luôn vô thức dõi mắt theo nàng, nhìn nàng phá kén hóa bướm, nhìn nàng từng bước đi lên đỉnh, nhìn nàng mệt mỏi rã rời đi trên con đường mình đã chọn, một lần té ngã lại một lần bò dậy tiếp tục đi, nhìn nàng đứng bên cạnh nam nhân khác, chịu vô số đối xử bất công nhưng chưa từng mảy may dao động, vẫn kiên định như núi.
Trên thế gian này, ai mới có thể vì ngươi toàn tâm toàn ý lăn xả vào luyện ngục? Ai sẽ nguyện ý ở cạnh ngươi khi ngươi chỉ có hai bàn tay trắng? Ai mới có thể sẵn sàng vứt bỏ sinh mạng vì ngươi khi cần? Và ai mới có thể vẫn một mực kiên trì ở cạnh ngươi sau khi bị lạnh nhạt như vậy?
Yến Tuân, ngươi rất may mắn nhưng lại không biết quý trọng.
Gia Cát Nguyệt bật cười to một tiếng rồi xoay người đi ra cửa. Bên ngoài gió tuyết vần vũ thổi tung áo choàng nhưng hắn vẫn ung dung bước đi.
Đã không chiếm được thì chi bằng cứ thản nhiên buông tay. Trong từ điển của Gia Cát Nguyệt hắn, chưa từng có hai chữ ‘thỉnh cầu’.
“Gia Cát Nguyệt!” Sở Kiều đột nhiên gọi to.
Gia Cát Nguyệt thoáng khựng lại rồi dừng chân. Sở Kiều vội vàng chạy đến, bước chân giẫm trên nền tuyết để lại dấu lõm thật sâu.
Nam nhân quay đầu lại, khẽ nhíu mày, “Còn chuyện gì khác sao?”
Sở Kiều tháo Phá Nguyệt kiếm đeo bên hông xuống đưa cho hắn, trịnh trọng nói: “Đi đường cẩn thận.”
Gia Cát Nguyệt nhìn trường kiếm trên tay Sở Kiều, không đưa tay đỡ lấy mà cũng không hề có ý định trả lại thanh kiếm đỏ thẫm hắn đeo bên hông. Sở Kiều hơi lúng túng nhưng vẫn cố chấp giữ nguyên tư thế giơ tay, mắt nhìn hắn chằm chằm, vẻ mặt như trẻ con đang tức giận vì không được cho ăn.
“Có ý gì?”
Sở Kiều cắn môi, im lặng suy nghĩ một lát, cuối cùng nói: “Chiến tranh toàn diện giữa Bắc Yến và Đại Hạ sắp sửa phát động rồi, khó tránh gặp nhau ở sa trường, khi đó ta tuyệt sẽ không hạ thủ lưu tình, ngươi cũng không cần nương tay với ta nữa, chúng ta…”
Sắc mặt đột nhiên lạnh đi mấy phần, Gia Cát Nguyệt cúi đầu nhìn thiếu nữ trước mặt, khẽ chau mày. Sở Kiều vô thức bị ánh mắt của hắn làm cho không được tự nhiên, giọng cũng dần dần nhỏ đi.
“Tinh Nhi, nói thật đi, nếu chúng ta gặp nhau trên sa trường, nàng thật sự sẽ không chút nhân nhượng lấy đầu ta?” Gia Cát Nguyệt trầm giọng hỏi, ngữ khí vô cùng nặng nề tựa như khó khăn lắm mới thốt ra được.
Lòng bàn tay Sở Kiều đột nhiên lạnh toát, nhưng lại bất giác rịn mồ hôi, miệng khô đắng, nàng hít một hơi thật sâu, đè nén cảm giác khó chịu trong lòng, chậm rãi nói: “Ta sẽ không giết ngươi, nhưng sẽ dùng hết sức mình để đánh bại ngươi.”
Một tiếng cười khẽ chợt bật ra, Gia Cát Nguyệt cúi xuống, nhẹ nhàng lắc đầu, không nói tiếng nào mà chỉ nhận lấy thanh kiếm trong tay Sở Kiều, sau đó xoay người rời đi, lưu lại một hàng dấu chân hằn trên mặt tuyết trắng.
“Đáng tiếc, ta lại không thể.” Giọng nói khàn khàn quanh quẩn trên đỉnh núi, trong nháy mắt đã bị gió tuyết thổi tan thành từng mảnh nhỏ.
Không phải là không thể, là không nguyện ý thì đúng hơn, bởi hắn biết rõ trên chiến trường, đối với hai người bọn họ, thất bại chẳng khác nào đồng nghĩa với cái chết.
Mà hắn thì sao có thể đập tan cơ hội sinh tồn của nàng?
Tuyết rơi càng lúc càng nhiều, mặt Đông núi Sơn Tây thấp thoáng bóng dáng của lều trại của một đoàn người dáng vẻ như thương lữ, có lẽ là nhân mã của Gia Cát Nguyệt. Sở Kiều đứng trước cửa thần miếu nhìn theo bóng lưng dần biến mất trong màn tuyết mịt mù của nam nhân, mãi đến khi cả người lạnh cóng thì mới quay vào trong điện, cầm bầu rượu lên uống một hớp, chất lỏng ấm áp chảy xuống yết hầu mang theo hương vị thật cay nồng.
Sở Kiều ngẩng đầu lên, đôi mắt sắc bén của Võ thần nhìn nàng như đang trách cứ nàng liều lĩnh không nghĩ cho đại cục, còn ở phía đối diện, đôi mắt hiền từ của Mẫu thần lại như thấu hiểu tất cả mọi khổ sở trong lòng nàng.
Thiếu nữ rã rời ngồi xuống co người ôm gối, tựa lưng vào cột chống trần điện ở một góc, thoạt nhìn nhỏ bé như một đứa trẻ còn chưa trưởng thành.
Lần đầu tiên trong đời, nàng lẳng lặng khoanh tay nhắm mắt lại, mệt mỏi lẩm bẩm: “Nhận ra đi Sở Kiều, tương lai nên đi hướng nào, bản thân mi cũng không rõ nữa rồi.” Tiếng thì thầm của nàng quanh quẩn trong đại điện, nhanh chóng bị gió tuyết gào rú bên ngoài đập tan.