Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Khí xuân đã hết, và mùa hè đã trở lại với ngày nắng chang chang, với đêm sáng đầy sao. Mùa hè năm ấy, mà cả dân tộc Việt Nam đều đợi chờ, đã đến hơi chậm chạp nhưng chứa chan hi vọng. Họ mong mỏi đã quá lâu, mùa của khôi phục. Và khi chim vịt cất tiếng đầu tiên, trong trẻo cả nước, từ vua cho đến dân, đều thở khoan khoái.

Nhời đoán của nhà tiên tri Phùng Tá Chu, quẻ bói của Trần Thời Kiến, đều nói mùa hè mới có lợi cho quan quân; chính Quốc công cũng chỉ mong đợi mùa hè. Tướng sĩ đã nghĩ đến những ngày nhộn nhịp lên đường, với cái chết thơm tho kèm bên, phảng phất mối sầu vĩnh biệt. Và cỏ cây, và ánh sáng, và tiếng ve, và nhời gió, như vẫy chào, như đón gọi những tráng sĩ đang ồn ào sửa soạn.

Hôm nay, mồng một tháng tư, Quốc công lập đàn cho tướng sĩ ăn thề. Đàn đã dựng lên cao cả giữa một rừng kỳ xí và gươm đao. Thanh Hóa đã thành một ngày hội với những màu rực rỡ. Quốc công sau khi tế cáo Trời Đất, đứng ra trước đàn. Quan Trung thư tuyên thệ:

— Ơn vua nợ nước, giặc dữ thù chung, ai ăn ở hai lòng, xin trời tru đất diệt.

Quốc công uống một hớp rượu máu rồi lui xuống. Vua Thiệu Bảo cũng lên đàn thề, rồi đến trăm quan, rồi đến tướng sĩ.

Khi mọi người đã tuyên thệ xong, trong một bầu không khí trang nghiêm lặng lẽ, đây đến lễ xin âm dương mà quan chấp chính đã loan báo cho mọi người biết trước: Quốc công sẽ gieo trước đài hai đồng tiền đúng một trăm lần, nếu quả trời còn tựa người Nam, thì lần nào cũng một đồng sấp một đồng ngửa, hỏng một lần cũng là hỏng cả.

Bấy giờ Quốc công đã đứng trước đàn, uy nghi trong bộ phẩm phục. Quan Tham tán Trương Hán Siêu đã đến thắp hương đốt nến. Trầm bốc lên nghi ngút. Chiêng trống một hồi cử lễ. Quốc công quỳ xuống. Trương đã tới trước đàn, tiếp lấy giá văn tế, cất giọng sang sảng đọc lên. Văn tế do Trương làm bằng chữ nôm, nhời nhẽ thống thiết và rõ ràng. Trong phút thiêng liêng mọi người đều hồi hộp, lo sợ như những thí sinh. Một trăm lần gieo mà được cả thì có là dị kỳ. Họ chỉ còn biết cầu Trời, Đất, Quỷ, Thần trông đến nước Nam đau khổ.

Mắt họ đổ dồn cả lên đàn, Quốc công đã lấy chiếc bát sứ đặt trên một cái khay gỗ, dâng lên ngang mày, kính cẩn cúi đầu, tay cầm hai đồng tiền gieo xuống. Trống ngực ba quân đánh mạnh, họ thì thầm:

- Lạy Trời! Lạy Đất!

Nhưng quan chấp chánh đã bước xuống đàn, nét mặt vui vẻ, đưa các đại biểu của ba quân xem: mắt mọi người đều hoa cả lên; quẻ đầu đã được. Quân sĩ đứng vây vòng trong vòng ngoài đều nghển cổ chờ kết quả. Thấy nét vui của đoàn đại biểu, họ hoan hô reo mừng. Quan chấp chính lại bước lên đàn, và bốn tráng sĩ đứng bốn góc bắc loa truyền ra:

- Tôi xin trình: quẻ đầu được.

Mọi người đều hớn hở, nói chuyện rào rào:

- Còn chín mươi chín quẻ nữa!

Quan Chấp chính cứ bước lên bước xuống, và bốn chiếc loa cứ lần lượt báo cho bốn phía tin mừng. Trong suốt quan quân, chạy một luồng sóng vui mênh mang.

- Còn một lần nữa, lạy Trời, lạy Trời!

Mắt mấy vạn người long lanh, vừa vì vui mừng, vừa vì lo sợ. Chỉ một lần sau cùng hỏng cũng đủ xóa bỏ hết chín mươi chín lần trước. Họ run run, nghẹn thở. Quan Trung thư dâng bát cho Quốc công cũng lộ rõ ràng vẻ cảm động. Duy Quốc công vẫn quỳ, lặng yên như núi, nét mặt chăm chú và chân thành. Lần sau cùng sao mà lâu thế? Quan quân không còn để sót một cử chỉ nào của những người đứng trên đàn. Tiếng gieo đã dứt, và quan chấp chính lần này bước xuống sao mà lặng lẽ! Người ta thấy nét mặt ngẩn ngơ của quan chấp chính, đều nói:

- Chết rồi! Chết rồi!

Trống ngực đánh mạnh như trống đê. Lo sợ tới cực điểm. Đang lúc hồi hộp, chợt thấy đoàn đại biểu nhảy lên sung sướng. Như say sưa, như điên cuồng, họ nắm tay nhau, họ ôm lấy nhau, họ đánh vật nhau. Bốn chiếc loa báo có phần to hơn những kỳ trước và long trọng biết bao:

- Tôi xin trình: quẻ một trăm cũng được.

Mắt mấy vạn người đều trào lệ vui mừng. Sóng nhiệt liệt dâng lên không sức gì ngăn nổi, cử chỉ trở lên cuồng loạn. Tay khua, chân múa, tiếng cười, tiếng hát, họ đan tay nhau thân mật, say mê trong một cuộc ca vũ tưng bừng.

- Trời tựa nước Nam, chứ có lẽ nào gieo một trăm quẻ mà đều được tăm tắp như một. Vạn tuế! Vạn tuế! Quan gia vạn tuế!

Đồng thời, tiếng “Sát Thát” cũng nổi lên, điệp khúc mạnh mẽ trong bản ca ồn ào náo nhiệt. Cái vui của quan quân thực là hoàn toàn. Khi Quốc công ở trên đàn bước xuống, mặt oai nghiêm nhưng hiền hậu, giữa quan Tham tán và quan Trung thư, trong khi tinh kỳ bay vẫy như chào mừng, mấy mươi vạn mắt thân yêu đều hướng cả vào Quốc công, phục tùng và quyến luyến. Trên trán bình tĩnh của Quốc công đã ửng ánh bình minh của chiến thắng, và tiếng trống vang lừng báo lễ tết, như đã vang vọng trước tiếng khải hoàn.

Một tiệc khao đã dọn, vĩ đại nhưng sơ sài. Vậy mà quan quân thấy tràn ngập một nguồn vui vô tận, người nào người ấy nhẹ nhàng như thêm cánh bay tới cung mây. Mãi đến canh khuya họ mới đi ngủ, óc lảng vảng bình minh của kinh thành cổ kính, tai mơ hồ nghe những tiếng chan chát của binh đao. Họ mong Tiết chế ra ngay lệnh xuất chinh, để họ được vui lòng hiến thân cho nước.

Sáng hôm sau, tỉnh Thanh Hóa lại tưng bừng hơn hôm trước. Hôm ấy là ngày đầu tiên, kể từ ngày vua tôi vào Thanh, tới nay đã được ngót hai tháng trời, có cuộc điểm binh của khắp các bộ đội. Vì thế nên tướng sĩ ai nấy đều hết sức ganh đua nhau để được vừa mắt Quốc công.

Trong một thung rộng sương mai còn ẩm ướt, đỉnh núi còn mù mịt mây mờ, cơ nào đội ấy đã chỉnh tề, đứng xếp hàng theo thứ tự mà quan Chấp chính đã định trước. Những chiến sĩ đứng trong hàng im lìm như phỗng, mang binh khí sáng trưng, các tướng ngồi trên mình ngựa, đứng đầu hàng quân đội của mình.

Một hồi trống đánh vang trong thung lũng. Thượng hoàng, vua Thái Bảo và Quốc công tế ngựa đi ra, theo sau là Tả Thiên Vương Đức Việp, Chiêu Văn Vương Nhật Duật, đại tướng Lê Phụ Trần, cùng nhiều các quan văn vũ khác. Các vị tiến ra đứng trước ngọn cờ đại. Ánh sáng của bình minh càng làm cho gươm giáo sáng lòa, giáp trụ tề chỉnh, và tinh kỳ thêm sặc sỡ.

Hưng Đạo Vương có đôi phần gầy gò hơn xưa, và già hẳn đi. Vậy mà không bao giờ quân sĩ thấy chủ tướng đẹp như hôm ấy, họ đổ nhìn người có gan sắt đá, lạnh lùng trước những nguy biến gớm ghê.

Rực rỡ nhất là quân tứ thiên, tứ thánh, tứ thần, đoàn chính thức của Triều đình, quân Quản thánh dực do đại tướng Nguyễn Thức trông nom. Kém uy phong, nhưng nhanh nhẹn hơn là nghĩa binh của các vương hầu: người ta chú ý đến bộ thúc của Chiêu Văn Vương, gồm người tứ xứ, cả người Mán, người Lào, người Chàm, người Trung quốc, một đạo binh kỳ quặc và nhiều màu sắc. Lánh hẳn ra một nơi là đoàn Tinh Cương của Chiêu Thành Vương, đoàn sáu trăm vô địch của Hoài Văn Hầu, hai đạo quân trẻ nhất và táo bạo nhất. Những bộ ngũ còn sót lại của những tướng đã qua đời như Hưng Đức Hầu, Nhân Đức Hầu, Bảo Nghĩa Vương, đều mang khăn trắng và hợp thành một đạo quân riêng. Đối với những đạo quân kia, họ trông ủ rũ, âm thầm, thỉnh thoảng họ lại nhìn lên lá cờ trắng mà họ đã nêu bốn chữ: “Sát Thát – Phục thù”.

Theo hiệu cờ lệnh trong tay Quốc công, cờ nào đội ấy theo thứ tự diễu đi, rồi theo hiệu cờ, lại trở về chỗ cũ muôn vạn người như một; lúc động nhẹ như gió, khi tĩnh im lìm như một tòa thành. Từ sáng tới trưa, đoàn anh dũng tỏ rõ trước mặt Quốc công một kỷ luật gang thép, một sự am tường chiến pháp đến triệt để. Chiều đến trong quân lại tổ chức những cuộc đấu võ, đánh vật, múa binh khí, thi chạy nhảy, so bắn tên.

Xem những cuộc biểu diễn, ngắm bắp thịt nở nang của những lực sĩ, vua Thiệu Bảo rất lấy làm khâm phục Hưng Đạo Vương và nói:

- Luyện tập mà được đến thế, thực là công phu vô cùng. Trẫm xem khí thế quân sĩ, lấy làm vững tâm, không lo ngại như trước nữa.

Hưng Đạo tâu:

- Quan gia ban khen, lão phu rất lấy làm cảm kích. Nhưng thật sự ra, quân ta có cái khí thế như ngày nay, trên là nhờ uy vũ của quan gia, dưới là do lòng phẫn nộ của tướng sĩ. Sĩ khí không có thì lão phu tốn công cũng bằng vô ích. Lão phu xét mình, thực không có công đức gì. Dân tâm dâng lên như sóng, mình chẳng qua chỉ là một kẻ ngồi trên thuyền thuận lái mà thôi…

Đương lúc trong suốt cõi Thanh Hóa, chỗ nào người ta cũng chỉ nói đến sự khôi phục nay mai, thì chợt có thư của Chiêu Minh Vương báo tin Toa Đô không đánh nổi Nghệ An đã kéo binh thuyền ra Bắc để hợp sức với Thoát Hoan. Vua hỏi:

- Nay Quốc công định sao?

- Lão phu dự liệu tất cả việc này. Toa Đô vượt biển trèo non, qua vùng Hoan, Ái, đường sá gập ghềnh, quân sĩ tất cả mỏi mệt lắm rồi. Nay phải kéo quân ra, thì thế lực đã cùng, Cứ như ý lão phu, ta nên sai một tướng dẫn binh thuyền ra chặn đường Toa Đô, dĩ dật đãi lao, thế nào cũng được.

- Quốc công bàn rất phải, nhưng liệu ai có thể đi được?

- Cơ hội khôi phục được hay không, là ở trận này cả. Cứ như ngu ý, chỉ có Chiêu Văn Vương cũng đánh được.

- Chính trẫm cũng có ý ấy.

Bấy giờ tin Trần Quang Khải đánh lui được Toa Đô đang làm chấn động các vương hầu tướng tá. Tuy chưa phải là một trận thắng, nhưng trong suốt ba tháng trời, đem một số quân hơn một vạn, cùng một ông lão già với một người tướng bạch đinh trẻ tuổi, mà giữ vững được vùng Nghệ An trước làn sóng mãnh liệt của mười vạn quân Toa Đô, hợp với mười vạn quân Chiêm Thành, để cho Thanh Hóa được ung dung sửa soạn một cuộc phục thù, Chiêu Minh Công quả đã lập được một kỳ công.

Các tráng sĩ sôi nổi vì cuộc thắng lợi ấy. Họ ca tụng Chiêu Minh Vương, Bạch Liễu, Phạm Ngũ Lão. Chiêu Thành Vương và Hoài Văn Hầu thì lại càng nóng nảy.

Quốc công cho triệu hết các vương hầu tướng sĩ lại bàn kế tiến binh, và nói:

- Nay tình thế đã khá hơn trước, quân giặc đã có bề uể oải. Vả ở kinh thành và suốt cả vùng Bắc, vì dân ta đã phá hủy hết cả hoa lợi, sự tiếp tế lại khó khăn, quân giặc đang lâm vào cảnh thiếu lương. Lại gặp tiết trời nóng nực, nhiều người chán nản, bệnh dịch đã bắt đầu phát sinh; đây là những triệu chứng suy nhược của quân giặc. Cái cơ hưng phục của ta nay đã đến rồi.

Toa Đô không đánh đổ Nghệ An, phải kéo quân ra Bắc. Trong ba tháng đánh nhau không lúc nào nghỉ, đạo quân của Toa Đô dầu là da đồng xương sắt cũng đã kiệt lực. Toa Đô dù là dũng mãnh, cũng không đáng sợ nữa. Ta chỉ cần một tướng đem quân ra chẹn đường Toa Đô, ngăn không cho nó hợp với Thoát Hoan. Đánh được Toa Đô, tức là thế cờ bên giặc tan vỡ. Vương hầu có ai dám lĩnh trọng trách này không?

Các vương hầu nhìn nhau, không phải vì sợ, nhưng vì đã lượng hết tính cách trọng đại của công việc. Chỉ nhầm một chút, có thể làm tan hết bao nhiêu công lao sửa soạn.
Một người bên sau vua Thiệu Bảo bỗng bước ra:

- Quốc công có lòng tin, tôi xin cáng đáng việc này.

Nhời nói rắn rỏi, các tướng nhìn ra thì là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, người anh hùng đã vỗ yên giặc dữ ở Đà Giang, mà không thiệt một mũi tên, một cái giáo. Nét mặt hòa nhã vui vẻ của vương hình tượng cả một lòng khinh rẻ khó khăn. Hưng Đạo Vương tươi cười nói:

- Chính bản chức đã nghĩ đến vương; chính Thượng hoàng và quân gia cũng muốn nhờ vương. Có vương đảm nhận cho, còn gì hơn nữa? Toa Đô là dũng tướng, lại có Ô Mã Nhi giúp sức, phải có một tướng khỏe để đối địch với chúng mới được. Vương đã nghĩ đến ai chưa?

- Khi nhà Tống mất, có người tướng là Triệu Trung không chịu thần phục quân Mông Cổ, đem gia quyến và ba trăm bộ hạ sang lánh mình bên nước ta. Triệu Trung là một dũng tướng, có tài vạn nhân địch, nay ta dùng làm tướng đánh Toa Đô chắc được. Hiện Trung là môn khách của tôi.

- Xin vương cho đòi ra đây xem.

Một lúc Triệu Trung quỳ lạy dưới thềm. Quả nhiên người cao lớn, dữ dội át hẳn vẻ mảnh dẻ của quân nhà. Hưng Đạo Vương cho thử sức khỏe. Trong sân có một cột đá nhờn và dài, Triệu Trung cúi xuống giơ lên, đi đi lại lại mười vòng quanh sân sắc mặt không biến. Cho thử mười tám ban võ nghệ, Triệu đều tinh thông. Các tướng bảo nhau:

- Thực là lực sĩ, anh em ta không kịp. Chắc thừa sức địch Toa Đô.

Hưng Đạo truyền cho Triệu Trung lại gần, ủy lạo một hồi và nói:

- Nay tệ quốc chiến tranh với rợ Thát, muốn nhờ tướng quân giúp sức cho, tướng quân nghĩ sao?

- Bẩm Quốc công, suốt từ mùa đông đến nay, rợ Thát tàn phá quý quốc, chúng tôi vẫn lấy làm công phẫn. Quốc công là bậc anh hùng, chúng tôi vẫn mộ đại danh và vẫn mong được theo hầu gót ngựa. Nhà Tống chẳng may không có một người như Quốc công, ví bằng có, thực không có lý nào mất được. Chúng tôi được Quốc công dùng đến, thực là may lắm. Huống chi nhà Tống chúng tôi mất, hoàng đế và triều đình đều bị giặc Thát tàn hại. Chúng có phải đâu chỉ là quân thù của nước Nam, chúng là quân thù của con dân nhà Tống, chúng là thù chung của hai nước. Chúng tôi được giết chúng để rửa thù thì còn gì sung sướng bằng? Riêng chúng tôi trong mười năm trời xa tổ quốc, được nhờ vương gia đây dung nạp, gây dựng cho cả gia đình, trông nom suốt đến bộ khúc khiến cho chúng tôi nhà tan mà vẫn được yên, nước mất mà không đến nỗi nhục nhã lòng trượng nghĩa khinh tài của vương gia, thực là hiếm có. Ân tái tạo chúng tôi thực ghi trong phế phủ.

“Mà có phải một mình chúng tôi được dung thân ở đất nước này đâu. Đồng bào chúng tôi, kể từ mùa đông năm Giáp Tý, bị rợ Thát ức hiếp, phải đem của cải xuống thuyền, vượt bể sang đây, được hoàng đế cho ở đất Hời. Đến năm Kỷ mão quân Thát bức vua chúng tôi ở Nhai Sơn, quan thừa tướng Lục Tư Phu cõng vua chúng tôi nhảy xuống bể; cung tần quan quân tuẫn tiết kể hàng mười mấy vạn người. Thây nổi lềnh bềnh trên bể Đông, được Quốc vương cho vớt lên đem mai táng. Kẻ sống đã được vỗ về, kẻ chết cũng được mát mặt, đều là nhờ lòng nhân ái của Quốc vương và tình lân tuất của quý quốc.

“Nay vừa là lúc chúng tôi rửa thù, vừa là dịp chúng tôi đáp lại ơn nước Nam. Chúng tôi xin coi việc quý quốc như việc nhà, nguyện đem hết tâm can sức lực ra đánh trận này. Dù chúng tôi có chết, chúng tôi cũng vui lòng. Thấy quân sĩ nước Nam mà chúng tôi thẹn. Nếu quân Tống cũng đồng tâm như thế thì đâu đến nỗi! Dẫu sao, chúng tôi cũng học thói Trương Lương, mang thù Dự Nhượng. Được chém đầu giặc dữ để tạ tội với triều xưa, tôi cũng không đến nỗi ôm suông mối hận xuống tuyền đài, và có gặp Văn trạng nguyên và Lục thừa tướng, chúng tôi cũng không bẽ mặt.

“Vậy xin Quốc công cho phép chúng tôi được theo vương gia, chúng tôi ra Bắc, Tử đệ của chúng tôi có ba trăm người, đều quyết một lòng đem chiếc thân lưu lạc ra trả nợ núi sông. Chúng tôi chỉ xin Quốc công có một điều, cúi xin Quốc công chuẩn y cho”.

- Xin tướng quân cho biết tôn ý.

- Chúng tôi tùng chinh, nghĩa vì quý quốc, tình vì non sông. Chỉ xin Quốc công cho chúng tôi được mặc quốc phục, gọi là còn thấy uy xưa, cũng như chúng tôi đánh theo hiệu cờ nước. Quốc công là một bậc anh hùng, thương nước thế nào, chắc đã hiểu tâm sự của chúng tôi và thấu tình cảnh của dân di thần vong mệnh.

Triệu Trung nói dứt lời, cảm xúc quá mạnh, không nói được nữa. Mọi người đứng đấy, đã bùi ngùi vì nhời nói của Triệu, lại ái ngại cho cảnh huống của người tráng sĩ giang hồ. Hưng Đạo nói:

- Lòng trung dũng của tướng quân chúng tôi rất lấy làm cảm phục. Chúng ta cùng chung một cảnh. Chúng tôi đánh cho nước, tướng quân cũng đánh cho nước, có lẽ nào tướng quân xin có một việc nhỏ như thế, tôi lại không ưng sao? Điều tướng quân thỉnh cầu, thực là tình chí thiết, tấm lòng quân ái quốc đáng làm gương sáng cho anh em chúng tôi. Vậy xin tướng quân cứ tự tiện cho. Chúng tôi cũng định bụng như thế mong tướng quân hiểu cho.

Triệu Trung cúi rạp xuống thềm tạ ơn và nói:

- Quốc công thực là bực chính nhân quân tử. Chúng tôi tâm niệm mong Quốc công chóng dìu dắt non sông ra khỏi vùng đắm đuối, chúng tôi được nghe tiếng trống khải hoàn, thực cũng thơm lây.

Hưng Đạo Vương truyền dọn rượu khoản đãi Triệu Trung, Triệu nói:

- Xin Quốc công miễn cho, chưa làm việc gì, chúng tôi đâu dám nhận? Khi lập công xong sẽ không dám chối từ. Xin Quốc công cho chúng tôi về thu xếp lên đường, cũng còn phải dặn dò tử đệ. Trung này còn lại còn phải tạ từ Quốc mẫu chúng tôi để khỏi nhỡ việc khởi hành.

Hưng Đạo ngạc nhiên hỏi:

- Quốc mẫu ở đâu, sao chúng tôi không được biết?

Triệu Trung ngập ngừng một lúc thưa:

- Bẩm Quốc công, đây là một chuyện riêng. Vả Quốc mẫu chúng tôi đã về rồi… Trước khi khởi hành, chúng tôi muốn ra đền Quốc mẫu ở đây, cầu người phù hộ chúng tôi thành công. Bình sinh người là bực thông tuệ, chết (***). Thành đấng anh linh. Người sẽ chứng giám cho anh em chúng tôi.

(***) Đoạn mất trong bản thảo

Nói xong, Triệu Trung lậy tạ Hưng Đạo Vương, về trại riêng, ăn mặc chỉnh tề rồi cùng ba trăm tử đệ tiến ra bờ bể.

Trông ra bể, trên một mỏm núi cao, ít người qua lại có một ngôi chùa hẻo lánh. Họ tới trước một cái đền con làm bằng gỗ, mái lợp gianh, vẻ sơ sài tiều tụy. Triệu Trung thắp hương, rồi quỳ xuống khấn. Lâu lâu đứng ra một bên, để ba trăm tử đệ nối nhau vào làm lễ, bể reo ầm ầm dưới chân, như cùng khóc theo những tráng sĩ không nhà rớt lại của những trung thần nhà Tống.

Hưng Đạo Vương hỏi mọi người, Chiêu Văn Vương nói:

- Khi vua Tống tử tiết, hoàng hậu nhà Tống cùng với một nàng công chúa trốn xuống một chiếc thuyền lênh đênh hơn tháng trời, hai mẹ con đã lả đi. Cũng may thuyền dạt vào bờ bể Thanh Hóa. Vị sư trụ trì ở đấy vội cùng mấy chú tiểu vớt lên. Cứu cấp mãi mới hồi tỉnh. Tống hậu là một người tuyệt sắc. Vị sư là bậc chân tu, nhưng chưa dứt bụi trần, cố đem thuyết Phật đánh đổ tà ý, đã không dẹp được, cùng quá có ý định muốn đi, để Tống hậu yên thân nương náu ở chùa. Tống hậu rõ chuyện, bực mình vì nhan sắc còn để lụy cho người, suốt một đêm khóc nước, thương chồng, rồi sáng tinh sương, bà nhảy xuống bể để cho tròn giá sạch. Công chúa không hiểu vì sao, thương mẹ cũng gieo mình xuống nước. Không ngờ mối tình của mình chưa lộ đã làm thiệt hai mạng người không chết vì sóng gió mà lại kết liễu dưới mái từ bi, nhà sư giận mình nhơ nhuốc, cũng đâm đầu xuống bể. Các tiểu cảm thương, lập một nếp đền gianh thờ Tống hậu cùng công chúa và nhà sư. Đền linh ứng lắm, và người Tống qua lại thường vào lễ để cầu thuận buồm xuôi gió.

Hưng Đạo Vương nói:

- Thế mà tôi không biết. Ta nên biểu tấu để triều đình sắc phong cho một trang tiết liệt để đỡ tủi gái Bắc phương.

Trong khi ấy thì các tráng sĩ Đại Việt tấp nập sửa soạn. Chưa biết ai được đi, nhưng ai cũng tưởng như sắp được nhẹ gánh quan ăn, và sắp được dịp trổ tài cùng quân giặc.

Nhất là quân bản bộ của Chiêu Văn Vương, quân Tinh Cương và sáu trăm trai của Hoài Văn Hầu thì lại càng sôi nổi.

Chiêu Văn Vương đã mấy lần muốn vào yết kiến Hưng Đạo Vương để xin đi đánh mà không được vào. Bấy giờ chánh tướng đã chọn rồi, nhưng Quốc công chưa cử ai đi giúp Chiêu Văn Vương. Người ta xì xào nói đến Chiêu Thành Vương, đến Hoài Văn Hầu, đến tướng quân Nguyễn Khoái. Chiêu Thành Vương thì hồi hộp nhất. Thủ đoạn lẫy lừng của Phạm Ngũ Lão làm cho vương ghen tức bao nhiêu, thì cái ý ra Bắc để cứu người yêu lại làm cho vương hi vọng bấy nhiêu. An Tư đi, đã hơn một tháng trời; tin tức về nàng không có mấy, chàng vẫn hàng ngày nóng ruột, không hiểu nàng ra sao. Ở giữa hang hùm, đã đành là tiết trinh của nàng chẳng vẹn, nhưng liệu nàng có toàn tính mệnh để đợi chàng không? Đêm đêm chàng thường giật mình lo cho số phận người yêu, nhất là mấy bữa gần đây, nghe tin bệnh dịch tả đã bắt đầu phát ở kinh thành, chàng ngồi đứng không yên; chiếc thân đào tơ liễu yếu, mà bao nhiêu nguy hiểm quanh mình! Chàng chỉ mong chóng được kéo quân ra Bắc, dấn mình trong vòng gươm giáo, tiến vào chỗ nàng bị giam cầm. Miễn là cứu được nàng ra khỏi trùng vi, thì muôn trùng ngăn cản, muôn bẫy hiểm nghèo chàng cũng vượt hết.

Các tráng sĩ mong mỏi ngày xuất trận một thì chàng mong mỏi mười. Nhiều đêm, những người thân tín thường bắt gặp chàng nói trong mơ:

- An Tư công chúa! Chị đấy ư? Đợi tôi ra đánh tháo cho công chúa!

Chờ đợi bao lâu, nay đã đến ngày, chàng lại thêm cái lo không biết Quốc công có cử mình đi không? Chàng tự nhủ: “Có lẽ nào ta lại không được đi? Quốc công đã biết cảnh ngộ ta, Quốc công chắc cho ta theo Chiêu Văn Vương, không khi nào Quốc công lại nỡ giữ ta. Không khi nào cả!”

Cho nên chàng săn đón nhất.

Chàng cứ đưa thoi từ trại mình đến dinh Quốc công. Nhưng chỉ thấy cửa dinh đóng im lìm. Quốc công vẫn còn hội đàm với Chiêu Văn Vương. Chắc hai vương đang cắt cử những tướng sĩ.

Đương lúc nghe ngóng, chợt thấy Trần Quốc Toản, nhanh như cắt, tươi như bông hoa, chạy lại hỏi:

- Chú đã biết tin tức chưa?

Vương nắm đốc kiếm, hồi hộp:

- Chưa? Việc gì? Tôi có được…

- Cháu được đi rồi.

- Thế à? Sao biết? Còn tôi?

- Hình như có.

Vương nhảy lên:

- Sướng quá. Thực không? Tôi chỉ sợ không được đi.

- Cháu cũng thế. Nhưng mới nghe thấy đồn thế thôi. Chú đừng nói ra, việc quân nhỡ ra Quốc công…

- Tôi biết rồi. Phải.

Tuy vậy, vương không giấu nổi cảm động. Vương hấp tấp chạy về trại bảo quân sĩ sửa soạn. Mừng quá, vương không nói lên nhời. Chợt có tướng lệnh của Quốc công vời vương lên. Đang dặn dò mọi người, vương bỏ đấy, theo sứ đi ngay. Tới nơi, đã thấy đông đủ các tướng tá trước sân dinh Tiết chế. Vương đứng nép bên Hoài Văn Hầu khi ấy đang mải nhìn lên thềm. Bốn bề im lặng. Quốc công bỗng truyền ra:

- Triều đình đã cử Chiêu Văn Vương làm chánh tướng ra Bắc. Ta lại nhờ được Triệu tướng quân giúp sức đánh Toa Đô.

Trong hàng tướng tá, ta đã xin cử tướng quân Nguyễn Khoái, Hoài Văn Hầu và Chiêu Thành Vương làm tiền bộ tiên phong. Cơ khôi phục non sông đã tới. Các ngươi là những người tâm huyết, ngày đêm nằm gai nếm mật, nay là lúc nỗ lực hi sinh cho quốc gia. Đuổi được giặc hay không, ta trông cậy vào trận này. Các người đừng nên phụ lòng ta tin cậy.

Các tướng còn đang nhìn nhau, Chiêu Thành Vương đã nhanh nhảu bước ra thưa:

- Quốc công đã có lòng tin, cho chúng tôi đi trước anh em, thực là vinh hạnh cho chúng tôi. Trước mặt Quốc công chúng tôi xin thề tử chiến: nếu không thắng trận này, chúng tôi xin gửi đầu về tạ tội Quốc công.

Ngay hôm đó Chiêu Văn Vương khởi hành, kéo binh thuyền ra Bắc. Vương dụ tướng sĩ:

- Ta trông quan gia, Quốc công và mọi người, nét mặt ai nấy đều hớn hở. Ta đoán là có tin mừng. Từ ngày thua ở Khả li, Lộc Châu, chúng ta nằm gai nếm mật, bây giờ ta mới lại được cùng chúng giao chiến. Quân giặc đã đến buổi vận cùng. Các ngươi mong tuyết hận, đây đã đến ngày tuyết hận. Các ngươi nên cố một phen, để cái tiếng của đoàn quân ta vang lừng trong trận này. Ta có đoàn ca nữ, chúng theo ta vào đây, nay cũng tình nguyện theo ta ra Bắc để hát mừng quan quân ngày thắng trận. Các ngươi đừng để họ chê cười.

Mọi người đều nói:

- Khăn yếm còn biết nghĩ thế, huống chi bọn râu mày chúng tôi.

- Chúng tôi được theo đại vương, như đã cầm sẵn chiến thắng trong tay. Đại vương không phí một tên quân, bình định được loạn Trịnh Giốc Mật thì đại vương cũng chắc thắng được Toa Đô. Chúng tôi quyết không phụ lòng chị em.

Sau Quốc công Hưng Đạo, vương là người được quốc dân trọng nhất: có cái đảm lược ôn hòa, vương đã được ví dũng như Quan Vũ và Lạn Tương Như. Vương tinh thông thao lược, đã từng đề tựa cho cuốn Bình thư của Hưng Đạo Vương. Nhưng vương không ưa chiến tranh, chỉ thích học các tiếng nước ngoài. Vương muốn làm nhà bác ngữ hơn làm trang võ tướng. Vậy mà khi cầm quân thì không ai mau lẹ, táo bạo như vương. Trước khi ra Bắc, vương gọi vợ con hãy ghi ngày vương ra đi làm ngày cúng giỗ, để tỏ cho mọi người cái ý quyết liệt với quân thù.

Dưới quyền chỉ huy của một đại tướng đã có một huân công kỳ lạ và có những đức tính làm mê lòng người như thế, các tướng sĩ kéo binh thuyền ra Bắc, mắt anh hùng đăm đăm như khuất phục cả cồn sóng bạc đầu…

Trong khi ấy, ở Thanh Hóa người ta sống như cơn sốt rét đợi chờ. Ngày ngày đã nối nhau ra đi, vô vị và lạnh lùng. Bể ngoài khơi vẫn réo và cái nóng kinh người vẫn làm chúa khắp nơi. Hoàng hậu và các cung tần phi chúa thì đi lễ các đền chùa, cầu nguyện các đấng linh thần ủng hộ đoàn quân của Đức Ông Tư. Thượng hoàng và vua Thiệu Bảo tỏ ý sốt ruột, ngày nào cũng hỏi ý kiến. Hưng Đạo Vương tâu:

- Xin Thượng hoàng và quan gia cứ yên tâm. Lão phu liệu thế giặc, xin cam đoan rằng trận thắng về ta. Chỉ vài hôm nữa có tin mừng.
Quốc công là người bình tĩnh nhất trong đợi chờ. Nhưng đêm đêm ngài vẫn cúi xuống cái bản đồ của Vũ Trí Thắng, liệu những đường lối mà Toa Đô thế tất phải qua, và nơi gặp gỡ giữa quân mình và quân địch. Ngài yên trí:

- Chỉ còn đợi xem trận đánh ra sao. Nhưng quân sĩ là những quân tinh nhuệ, tướng tá toàn là những kẻ có đảm lược, có tài trí, không thể thua được.
Ngày cứ lặng lẽ trôi, vua tôi thấy bặt mãi tin, đều lấy làm lo lắng, Quốc công phải nói:

- Thua trận này, không những Chiêu Văn Vương phải nộp đầu, mà chính ta cũng vậy.

Và tướng sĩ đánh đố nhau:

- Một là quân Toa Đô không gặp quan quân và đã hội với quân của Thoát Hoan, hai là quân Chiêu Văn Vương đã gặp quân địch và đã phá tan. Khi vương đi, đã dặn lại rằng nếu có sứ về thì tức là thắng, mà không tức là thua. Vì thế nên càng đợi lâu bao nhiêu thì người càng lo ngại bấy nhiêu. Người ta chỉ được chút yên tâm là thấy Quốc công rất vững, Quốc công đã quyết thế nào, thì thường trăm phần đúng cả, nhất là về việc hành binh thì ngài sáng suốt vô cùng. Trăng rằm đã lặn, rồi trăng mười sáu, rồi trăng mười bảy, rồi trăng mười tám. Tính ra Chiêu Văn Vương đi đã được mười lăm ngày.

Một hôm, giữa lúc đợi chờ đã đưa người ta đến một chán nản, gần như thất vọng, thì một người lính canh ngoài bờ bể báo tin:

- Thuyền Hoài Văn Hầu!

- Hoài Văn Hầu đã về!

- Có thực không?

- Hoài Văn Hầu đâu?

Và tin Hoài Văn Hầu về chỉ trong chốc lát đã lan đi khắp nơi. Tuy kỷ luật nghiêm minh, người ta cũng đổ ra nghe ngóng tin tức. Những người đi chậm, đã nghe thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy tướng sĩ xúm xít vây quanh Trần Quốc Toản, khiến cho ngựa chàng không sao tiến lên được. Người thì hoa chân múa tay, người thì nhảy lên bạn hữu, người thì tung khăn giơ kiếm, ai nấy đều mặt đỏ bừng bừng, mắt sáng như điên, tiếng hoan hô om xòm, át cả tiếng bể gầm:

- Thắng rồi! Đại thắng! Hàm Tử Quan! Quân giặc thua rồi! Toa Đô tan vỡ! Quân giặc thua rồi! Toa Đô tan vỡ! Thắng rồi! Đại thắng rồi!

- Sướng quá! Đại thắng! Đại thắng! Khôi phục Thăng Long! Vạn tuế! Vạn tuế! Sát Thát! Khôi phục Thăng Long.

Người ta còn nhận rõ những tiếng hô Quốc công, Chiêu Văn Vương, Chiêu Thành Vương, Hoài Văn Hầu, Nguyễn Khoái, Triệu Trung, như những tiếng pháo nổ trong ngày rước đám.

Hoài Văn Hầu nói:

- Để ta vào bẩm mệnh Quốc công đã. Ta mang tướng lệnh của Chiêu Văn Vương, hãy để ta đi, các người.

Những nét vui vẻ hiện rõ trên nét mặt những vị tướng, nụ cười duyên nở trên môi, cố kìm giữ nỗi mừng, bảo quân sĩ:

- Anh em hãy dạt ra để Hoài Văn Hầu đi đã. Việc quân nhỡ ra thì phải làm thế nào?

Lại tiếng hô:

- Hàm Tử Quan! Cho chúng biết mặt trai nước Nam. Hàm Tử Quan! Đánh cho chúng không còn một mảnh giáp. Khôi phục Thăng Long phen này đến lượt anh em chúng ta.

Và họ giãn ra cho Hoài Văn Hầu đi. Người thiếu niên vừa tế ngựa, vừa ném ra bốn phía cầu:

- Đại thắng ở Hàm Tử Quan!

Lời nói của chàng trong và nhẹ như tiếng suối ròn reo, đượm vẻ ngây thơ hào hùng. Hầu đã tiến vào dinh Quốc công, Thượng hoàng, vua Thiệu Bảo cũng hấp tấp chạy ra và hoàng đệ Tá Thiên đại vương Đức Việp đang tập trận cũng chạy về xem tin mừng có thực. Trong khi ấy các tướng sĩ cơ nào đội ấy, trở về đội mình, sửa soạn tấp nập, yên trí là đến lượt họ đi khôi phục Thăng Long nay mai…Những tiếng ca, tiếng huyên náo trong các dinh trại nổi lên, hòa với tiếng đao kiếm chạm nhau, tiếng thử cung tên và tiếng hô “Sát Thát”…

Hưng Đạo Vương hỏi Hoài Văn Hầu:

- Cháu về chắc có tin mừng cho chú?

Hoài Văn Hầu quỳ dưới thềm, thưa:

- Cháu vâng tướng lệnh Chiêu Văn Vương, về dâng tin thắng trận. Hiện có thư của Văn Vương và sổ công lao, trình hai Thánh và Quốc công.
Hưng Đạo Vương cho Hầu đứng lên, tiếp lấy thư và sổ, thân mật hỏi Quốc Toản:

- Cháu lập công đầu chứ?

- Bẩm Quốc công, cháu chỉ làm quẩn chân tướng sĩ. Công đầu là ở Triệu Trung tướng quân cả. Thực là một hổ tướng anh hùng.

Thượng hoàng phán:

- Hoài Văn Hầu có mặt ở trận nào là thắng trận đó.

- Tâu Thượng hoàng, đó là hồng phúc của quốc gia, thần vũ của hai Thánh, chứ hạ thần có công cán gì.

Vua Thiệu Bảo chỉ một cái ghế và phán:

- Hầu ngồi đây, trẫm muốn hỏi chuyện vài câu.

Hoài Văn Hầu bái tạ, ngồi xuống ghế. Thượng hoàng, vua Thiệu Bảo và Quốc công Hưng Đạo cũng xúm lại xem thư của Chiêu Văn Vương, Thượng hoàng tươi cười phán:

- Đợi mãi mới có ngày nay. Quốc công liệu định thật đúng như nhời. Được có ngày nay đều nhờ Quốc công cả.

Vua hỏi Hoài Văn Hầu:

- Trận đánh ra sao? Trẫm phiền Văn Hầu kể lại tường tận cho nghe.

Hầu nói:

- Thưa quan gia, ngày mồng ba quân ta lên đường, Chiêu Văn Vương sai ngả cờ im trống, truyền lệnh cho quân sĩ mặc đồ như thường dân, chia làm nhiều toán, ngày thì tản mát đi, đêm thì tụ lại; lại lập nhiều đội binh liên lạc các toán để cho toàn quân không rời rạc. Chiêu Thành Vương và tiểu tướng được lệnh đi trước để tụ tập những chiến thuyền, vì ngày vào Nam, Quốc công đã ký thác cho những đại, tiểu tư xã các làng ở vùng Tràng An, Lý Nhân, Thiên Mặc.

Văn Hầu nhìn Quốc công để tỏ lòng cảm phục rồi lại tiếp ngay:

- Chiếu trong sổ, không có một chiến thuyền nào thiếu, các đại tiểu tư xã còn đóng sẵn nhiều chiến thuyền cung cấp cho quan quân. Vào các đình nào cũng thấy họ đã sửa soạn từ lâu. Chỉ một tiếng mỏ rao, là dàn ra như kiến, sung vào đội ngũ, tình nguyện tòng chinh. Khí giới, quân nhu, nhất nhất đều sẵn sàng, ai nấy đều có thích chữ “Sát Thát” ở cánh tay. Tiểu tướng không ngờ lòng dân hăng hái đến bực ấy.

Vua ngạc nhiên bảo Hưng Đạo Vương:

- Trẫm cũng không ngờ.

Hưng Đạo chậm rãi nói:

- Lão phu đã biết lòng dân, nên trong buổi ba đào, lão phu vẫn không nản chí.

Hầu lại tiếp:

- Thành thử quân của triều đình chỉ có một vạn người, và các chiến thuyền lớn nhỏ có đến ba trăm chiếc. Vừa tới Hàm Tử, thì có tin Toa Đô đang đánh lên, chỉ còn cách hai mươi dặm. Chiêu Văn Vương trỏ khúc sông và bảo các tướng sĩ:

- Ta chết sống ở chốn này. Không cho Toa Đô qua nữa. Toa Đô sa vào lưới của Quốc công rồi. Tướng sĩ! Các ngươi đừng làm uổng bao nhiêu công lao trù tính của Quốc công. Dịp may này chỉ có một lần, ta nên sống chết ở chốn này, các ngươi nên tận lực.

Tiếng hô “Sát Thát” vang lên. Vương chia binh thuyền phục sẵn các ngành sông. Sau khi đã bày binh bố trận đâu đấy cả rồi, vương thân dẫn một chiếc thuyền con đi thanh tra các nơi cho thực chu đáo. Rồi vương về thuyền riêng, cùng Triệu Trung đánh cờ. Bấy giờ là tảng sáng ngày 13 tháng 4. Theo lệnh vương, quan quân được nghỉ ngơi từ sáng đến gần trưa.

Trưa 13 thì có tin Toa Đô đã gần. Quân ta nhìn nhau, nghẹn thở vì vui mừng. Trời như thiêu như đốt, nắng chang chang. Thám tử báo quân Toa Đô đều mệt nhoài và người chết bị quẳng xuống sông nhiều lắm. Chúng nghiễm nhiên đi, chiến thuyền lộn xộn, cờ hiệu không tề chỉnh, và tiếng trống nghe ra cũng chểnh mảng. Không phải kỷ luật họ không nghiêm, chính thực thì họ không phòng bị. Họ không ngờ quân ta đón đường. Mà quả vậy. Dù bắt gặp mấy chiếc thuyền của ta đi trinh sát, họ cũng không để ý, cho là thuyền đánh cá hay thuyền chở hàng không đáng quan tâm.

Quân Toa Đô đương vô tình, thì một tiếng pháo lệnh nổ ran, quân ta nán chờ từ bao nhiêu ngày tháng, nhất tề lăn xả vào thuyền giặc. Triệu tiên sinh và ba trăm tử đệ đi trước, nêu cao ngọn cờ nhà Tống. Triệu tiên sinh mỗi tay cầm một ngọn kích, gạt những tên bắn quanh mình, hăng hái mở đường cho quân ta. Chiêu Văn Vương đã tuyển một nghìn quân ta cũng cho ăn bận theo lối quân nhà Tống, phao tin lên rằng quân Tống đã khôi phục được nước và nay đem viện binh sang giúp nước Nam đánh bại quân Mông Cổ. Quân Toa Đô trông thấy Triệu tiên sinh, có người nhận ngay ra là một tướng cũ nhà Tống. Tưởng nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu rồi, họ sợ hết vía, kêu khóc như ri, hoang mang không có lòng đánh trận nữa; lại thêm mệt mỏi, họ không nghĩ cả đến việc chống cự. Triệu Trung cứ thúc thuyền sấn sang trận giặc, và chỉ nháy mắt, mười chiếc thuyền tiền đội của Toa Đô bị đánh đắm.

Quân ta càng nô nức đánh ùa xuống. Tiểu tướng cùng Chiêu Thành Vương nhảy sang một thuyền giặc, chém được một đầu mục, vứt đầu lâu ném sang một thuyền khác, đánh ngã luôn mấy đứa quẳng xuống sông. Vận may đã đến, sức đánh rất hăng, gươm giáo cũng khôn ra. Tướng sĩ vui mắt đua nhau làm theo, tha hồ chém giặc như băm dưa,đoạt được đến sáu chục chiến thuyền lớn. Toa Đô xông xáo, thét quân đứng lại, sai chèo thuyền sấn lại đánh Triệu tiên sinh. Hai tướng đấu nhau thực là vui mắt. Thấy vậy, quân Nguyên Mông nổi loạn thêm. Oai phong lấy lại bình tĩnh chúng đánh rất hăng, không nhường một bước. Bấy giờ quan quân mới thực là gặp địch thủ. Triệu tiên sinh quả là hết lòng với nước Nam, trổ hết thần y đánh với Toa Đô. Quan quân không tiến được mấy nữa và chật vật mãi mới đánh chìm được một chiếc chiến thuyền. Ba trăm tử đệ của Triệu tiên sinh đánh hăng hơn cả quân nhà; họ chết đã quá nửa, nhưng những người còn sống vẫn thản nhiên. Nghĩ mình đánh cho mình, chết là phải rồi, nhưng thấy họ chết cho người, thực là ân hận thay cho họ… Chiêu Thành Vương và tiểu tướng thấy Triệu tiên sinh đánh mãi Toa Đô không đổ, xông lại giúp, nhưng các tướng Mông Cổ đổ cả ra đối địch, phút chốc trên mũi thuyền toàn là các tướng đánh nhau.

Đang lúc bất phân thắng phụ, người nổi lềnh bềnh trên mặt nước và máu đỏ loang sông, thì viện binh Ô Mã Nhi tới. Quân Nguyên càng thêm hăng, quân ta cũng chẳng kém, bảo nhau:

- Thách cả Ô Mã Nhi, chúng ta khôn cần, anh em cứ vững tâm.

Ô Mã Nhi sấn lại đánh Chiêu Thành Vương, mười tướng xúm lại mà đỡ, thảy đều loạng choạng, rút cả xuống. Mã Nhi thực có một sức khỏe thiên thần, đang hăng máu nó càng hung mãnh.

Tướng sĩ vẫn cứ lăn xả vào chống Ô Mã Nhi để Triệu tiên sinh đánh Toa Đô, nếu không có tiên sinh, thì thế trận của ta vỡ từ bao giờ. Toa Đô thực là vô địch. Đương lúc quân ta có phần núng thế, thì tiếng chiêng trống vang lừng nổi lên: Chiêu Văn Vương và Nguyễn Khoái dẫn đại binh, lẻn đi một ngành sông khác đánh vào sườn quân Toa Đô. Thuyền tướng quân Nguyễn Khoái đi nhanh như gió. Đứng trước mũi thuyền, Nguyễn Khoái nói to:

- Anh em cứ vững tâm đánh đi, giặc mắc mưu vương gia rồi. Khoái đến đây thì trăm Ô Mã Nhi cũng không đáng sợ.

Thấy Chiêu Văn Vương quân sĩ đã nức lòng, lại thấy có Nguyễn Khoái mọi người lại càng vững. Quân ta reo vang lừng:

- Tướng quân Nguyễn Khoái, mau đến đây đánh Ô Mã Nhi giúp anh em, không có thì hỏng cả.

Chỉ một nháy mắt thuyền Nguyễn Khoái đã lẫn với thuyền giặc. Biết Nguyễn Khoái là tướng giỏi. Mã Nhi không dám luyến chiến với những người khác. Xoay ra đánh với Nguyễn Khoái. Chiêu Văn Vương đứng trước mũi thuyền thúc trống. Các tướng sĩ như thêm sức, và những người đã mệt nhoài bỗng thấy mình khỏe lại. Thuyền nhà và thuyền giặc lẫn lộn nhau, có khi thuyền nhà quân giặc dùng, có khi quân ta đứng trên thuyền giặc, hết đâm chém, đến giằng co nhau mẩu gươm mẩu giáo, hay cầm mũ trụ phang nhau, hay vật lộn nhau trên mạn thuyền, ngã lăn cả xuống sông mà không bỏ nhau ra, cào cắn nhau cho đến khi cả đôi cùng chìm lỉm xuống dưới nước. Dân quân cũng như quân triều đình đánh cũng không kém. Có người đã cụt một cánh tay, ngã vật xuống nước, còn một tay vẫn cố bơi đến thuyền giặc, nghiến răng chuyển hết sức bình sinh lôi cả chiến thuyền, tuy không làm đắm được nhưng cũng làm tròng trành khiến cho quân giặc loạng choạng, giở tay không kịp bị quân ta giết chết.

Lại vừa may, Ô Mã Nhi hụt chân bị Nguyễn Khoái đánh ngã vật vào trong khoang thuyền. Khoái định nhảy sang. Nhưng Toa Đô đã rõ cơ nguy, đành bỏ Triệu Trung xông qua cản Nguyễn Khoái. Triệu tiên sinh thừa cơ, vẫy lá cờ lệnh, hô quân tiến sang. Trận giặc vỡ hẳn và chiến thuyền của ta ầm ầm kéo sang, quân Nguyên không còn chống đỡ gì. Chúng kêu khóc như ri. Quân ta khi ấy hung hơn quân Mông Cổ. Giặc cùng đường nhảy cả xuống sông, lóp ngóp chạy lên bờ. Chỉ ân hận để Toa Đô và Ô Mã Nhi trốn thoát và cứu được nhiều chiến thuyền đi. Khi quân giặc đã chạy xa, quan quân tra gươm vào vỏ trông thấy ánh nước đỏ ngầu, anh em nhìn lên trời mới biết trăng mọc từ lâu. Nhìn nhau ai nấy bét be những máu, quần áo rách rưới. Nhưng vui không biết thế nào kể được. Người nhẹ như bay lên chín tầng mây, ai cũng muốn báo ngay cho triều đình biết tin mừng. Ba tiếng “Hàm Tử Quan” nghe êm hơn nhời ru. Không ai muốn bỏ khúc sông ấy. Lòng say sưa đến nỗi không ai nghĩ đến việc đi tắm gội, thay quần áo và rửa đồ binh.

Chiêu Văn Vương điểm tướng sĩ, thiệt mất hơn vạn người, nhưng ước lượng số giặc chết và bị bắt tới hơn ba vạn. Chiến thuyền bắt được hơn trăm chiếc và binh khí tinh kỳ chất đống lên bên bờ sông, thành ba ngọn đồi. Tính ra có năm vạn người, ta đã bại được mười vạn quân Mông Cổ. Chiêu Văn Vương úy lạo mọi người. Dân quanh vùng đem trâu bò và rượu ra thết quan quân. Vui quá và mệt quá, không ai ăn được, xem ý dân gian sung sướng hơn quan quân nhiều. Ngay sáng hôm sau, Chiêu Văn Vương trao thư và sổ công lao cho tiểu tướng về báo tiệp.

Vua Thiệu Bảo nói:

- Nghe hầu nói mà vui, chắc sự thật còn vui hơn nhiều lắm. Hôm nay hầu cùng trẫm ăn một bữa tiệc chung, gọi là mừng một tráng sĩ. Hầu không được từ, ý trẫm đã quyết.

Hầu thưa:

- Quan gia ban ân, tiểu tướng lẽ nào dám từ. Chỉ nghĩ tiểu tướng đã không có công trạng gì, lại cướp cả công lao của anh em ngoài mặt trận, thực không phải nhẽ.

- Cái đó không hề gì. Trẫm biết cả rồi. Tin của hầu đem về cũng đã đáng thưởng rồi.

Hoài Văn Hầu lạy tạ. Vua lại hỏi Hưng Đạo Vương:

- Ta đã thắng ở Hàm Tử, Toa Đô đã lui; ta nên làm gì bây giờ, xin Quốc công chỉ giáo cho.

Quốc công nói:

- Quân ta mới thắng, sức lực đang hăng, quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Cứ như ý lão phu, ta nên sai một đại tướng đem binh thuyền ra Bắc, khôi phục Thăng Long được rồi!

Thượng hoàng và vua mừng rỡ. Vua hỏi:

- Việc khôi phục Thăng Long không phải là việc dung dị. Nhỡ một chút thì uổng cả trận Hàm Tử Quan. Ta phải chọn một đại tướng có thật tài, ngõ hầu mới cáng đáng được việc lớn ấy. Quốc công định cử ai? Hay truyền lệnh cho Chiêu Văn Vương đánh lên?

- Không được. Văn Vương phải ở đấy giữ rịt Toa Đô không cho hợp với Thoát Hoan. Việc này rất quan trọng. Nhỡ ra thì hỏng hết.

Việc khôi phục Thăng Long phải giao cho một người khác, lại cần phải người có tài cầm quân hơn Chiêu Văn Vương mới được. Việc này phải gọi Chiêu Minh Vương về. Phi Chiêu Minh Vương không ai làm nổi.

Vừa nói dứt lời thì quân báo Thượng tướng Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải ở Nghệ An về, sắp tới hành cung. Vua Thiệu Bảo cùng Thượng hoàng và Hưng Đạo Vương dẫn các quan và tướng sĩ ra đón. Quang Khải ở xa tế ngựa lại, nhảy xuống phủ phục trước ngựa Thượng hoàng và vua, miệng hô vạn tuế.

Thượng hoàng cùng mọi người xuống ngựa. Thượng hoàng cầm tay em và nói:

- Một dải Nghệ An, nhờ hoàng thúc lo liệu được yên, nghĩ hoàng thúc thực là gian lao vất vả.

Vương nói:

- Lão thần có công cán gì đâu, ấy là nhờ tướng sĩ cả.

Nói xong, gọi Phạm Ngũ Lão lại. Ngũ Lão cúi lạy bên vệ đường. Vua truyền cho đứng dậy. Vương chỉ Ngũ Lão và tâu:

- Bạch trạng nguyên lo mưu trong trướng, Phạm tướng quân đây tử chiến với Toa Đô, không có hai người ấy và các tướng sĩ thì cơ hồ không giữ được Nghệ An và cũng không lui được giặc Hồi.

Vua truyền cho mọi người lên ngựa, cùng đi cùng nói chuyện, lại quay lại bảo Ngũ Lão:

- Một trận đánh Toa Đô làm cho quân Mông Cổ khiếp đảm, người Chiêm Thành chán nản, ngươi thật là thần tướng.

Lão ấp úng không nói lên nhời. Vua lại đòi xem mặt Bạch Liêu. Quang Khải nói:

- Trạng nguyên nói mọi việc đã có Quốc công lo liệu, thắng lợi chỉ còn đợi ngày, có ra cũng ích lợi gì, vì thế xin ở lại Nghệ An chăm bón mấy gốc lan.

Vua nói:

- Đỗ đến trạng nguyên, có tài đại lược mà không chịu ra làm quan, coi công danh phú quý như mây nổi, người ấy thực là cao sĩ.

Thượng hoàng kể lại chuyện Chiêu Văn Vương đánh Toa Đô ở Hàm Tử Quan cho Chiêu Minh Vương nghe và ngỏ ý muốn cất quân ra khôi phục Thăng Long.

Quang Khải tâu:

- Nay em Tư đã lập đại công, lão thần ở Nghệ An, công ít tội nhiều, nguyện xin cho ra khắc phục Thăng Long để chuộc tội. Chỉ xin đem tướng sĩ ở Nghệ An cũng đủ. Lão thần đã quen đánh trận với tướng cũ và nhất là với Phạm tướng quân đây.

Vua cả mừng, một tướng cũng bước ra tâu:

- Tiểu tướng xin theo Thượng tướng đi đánh Thoát Hoan.

Nhìn ra thì là Hoài Văn Hầu. Chiêu Minh Vương nói:

- Được cháu cùng đi nữa, ta tất thắng Thoát Hoan.

Sau khi Hưng Đạo Vương cùng Chiêu Minh Vương bàn luận về việc khôi phục Thăng Long, ngay hôm đó, Quang Khải dẫn năm vạn quân, thẳng đường bể ra Bắc.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK