Mục lục
Huyền Thoại Cổ Ngọc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

ORVAR ICENSTAFF
Ngày 20 cung Nhân Mã năm thứ 8 hậu Hiệp Ước,
90 ngày trước Xuân Phân,

Thời điểm này, Frostmost vẫn đang nằm gọn trong màn đêm tăm tối. Những ngày cuối cùng của sáu tháng Trường Dạ đang chầm chậm qua đi. Đảo Frostmost nằm xa tít tận cực bắc Hetra. Nơi đây mặt trời chỉ mọc đúng một lần trong năm vào ngày Xuân Phân, chiếu sáng suốt sáu tháng liên tục, rồi lặn mất tăm trong nửa năm còn lại. Người ta thường nói đây là khoảng thời gian mà đảo quốc đẹp nhất. Từ khơi xa, có thể thấy những đốm lửa màu xanh nước biển thấp thoáng bên khung cửa gỗ, rải rác trên ngọn đồi White Head uy vệ nằm ngay tâm đảo.
Sừng sững trên đỉnh đồi là tháp Đại Hội Đồng, cơ quan quyền lực tối cao của các Phù thuỷ và Pháp sư Frostmost. Ngọn tháp cao vút được chính tay Lôi Thần đẽo gọt từ một cây cổ thụ khổng lồ, vươn cao tít tắp chọc thẳng đến bầu trời. Đỉnh tháp được bao phủ bởi tầng tầng lớp lớp những khối mây màu xám dày đặc vần vũ quanh năm suốt tháng trông cực kỳ bí hiểm, tương truyền đó là nơi che giấu lối dẫn lên Thiên Sảnh - nơi những Pháp sư hùng mạnh nhất có thể giao tiếp với các Cổ Thần. Nhưng kể từ Kỷ Nguyên Im Lặng, khi các thần biến mất một cách bí ẩn khỏi Hetra, chưa có một Pháp sư nào đủ quyền lực để đặt chân đến Thiên Sảnh cả.
Theo truyền thuyết, hòn đảo Frostmost này ban đầu chỉ phủ đầy băng đá nhưng Hải Thần đã tìm kế đánh lừa Thổ Mẫu Thần, xén một ngọn đồi ở phương nam trù phú và cuốn nó đến đây. Ngài lại ban phép để trong lòng ngọn đồi White Head luôn chảy một mạch nước ấm áp, khiến cây cối có thể sinh sôi nảy nở. Tuy không có nhiều giống cây phong phú như những vùng khác nhưng rất nhiều loại thảo dược quý hiếm mà không nơi đâu mọc được đều đâm chồi nảy lộc tại Frostmost bất chấp không khí quanh năm giá lạnh.
Hòn đảo này là một miền đất tĩnh lặng. Ngay cả trẻ con cũng không ồn ào như ở những nơi khác. Chỗ náo nhiệt nhất có lẽ là cảng Misty nằm ở bờ nam. Cứ khoảng giữa cung, tàu thuyền ở các vùng lại ghé qua để trao đổi buôn bán hàng hoá. Frostmost bán thảo dược cho một số quốc gia miền hoang mạc và thu mua các loại hương liệu và công cụ mà trên đảo không tự sản xuất được.
Công việc hàng ngày của các cư dân hết sức bình dị. Đa phần các Pháp sư đều là những nghệ nhân điêu luyện. Có người trồng cây thuốc, có người lại dệt băng tuyết thành những bộ áo chùng trắng tinh óng ánh mà không bao giờ tan chảy, lại có những thợ thủ công chuyên đẽo những bức tượng tinh xảo từ đủ mọi chất liệu như đá tổ ong, cẩm thạch, và dĩ nhiên là cả từ những khối băng vĩnh viễn… Không gian tuy lạnh lẽo nhưng không hề đìu hiu cô quạnh, trái lại còn muôn màu muôn vẻ, hết sức hấp dẫn đối với những người ngoại quốc.
Hình ảnh thường thấy và ấn tượng nhất ở đảo quốc vẫn là những Pháp sư trẻ hăng say mài dũa phép thuật. Phàm bất cứ ai từ nơi xa ghé thăm cũng phải ngẩn ngơ trầm trồ trước uy lực pháp thuật khi họ đang chăm chỉ tập luyện. Những dòng nước uốn lượn trên không trung, những quả cầu lửa hừng hực phóng vun vút trong bãi tập bắn, những pha cận chiến bằng quyền trượng không hề thua kém các Hiệp sỹ phương nam. Vốn đã trải qua biết bao cuộc chiến tranh thăng trầm, chưa bao giờ con dân Frostmost dám lơ là cảnh giác với các thế lực bên ngoài, và vì thế những buổi tập huấn được tổ chức gần như hàng ngày.
Nói về chiến tranh thì ngày 20 cung Nhân Mã là một ngày đáng nhớ đối với họ. Tám năm trước, Tổng Pháp quân Sigurd Icenstaff đã hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược từ Đế Quốc Kim Cương. Orvar Icenstaff mất đi người cha khi cậu chỉ vừa mười sáu tuổi. Đêm nay, những ngọn đuốc thắp lên sáng rực dưới chân các bức tượng Tổng Pháp quân đã ngã xuống vì đảo quốc. Hàng trăm pho tượng làm bằng băng trong suốt oai dũng xếp thành ba vòng quanh quảng trường Crescent, trải rộng trước cổng chính tháp Đại Hội Đồng. Nơi nơi tràn ngập ánh lửa xanh lạnh lẽo, phản chiếu gương mặt những nhân chứng của chặng đường gươm đao gian truân mà Frostmost phải đi qua. Họ đã kiên cường đánh đổi biết bao máu và nước mắt cho những tháng ngày bình yên như hôm nay.
Orvar đứng trước bức tượng cha mình, gương mặt cậu bị bao phủ bởi ánh đuốc xanh lập loè làm đôi tròng mắt xanh biếc dường như tan đi đâu mất, mái tóc đen dài buồn bã khẽ lay động trong cơn gió bắc lạnh lẽo. Chưa bao giờ cậu yêu thích thứ lửa lạnh lùng này. Orvar luôn ôm trong mình khao khát rời khỏi nơi đây. Cậu muốn được khám phá thế giới, được cái nóng cháy bỏng ở Thần Hoả Quốc miết qua da, được đắm chìm vào những tàng cây cổ thụ ở Rừng Folidarc, muốn đến nhìn tận mắt đất nước phồn vinh của bọn Đế Quốc Kim Cương. Orvar muốn quên đi những đau buồn để được sống thật tự do, thoát khỏi những tranh đấu thương tâm vô nghĩa.
Cậu ngước gương mặt không chút cảm xúc cùng đôi mắt ráo hoảnh nhìn ngắm người đàn ông trước mặt. Mỗi lần có việc qua quảng trường, cậu đều nhắm mắt cúi đầu đi thật nhanh. Có rất nhiều cách để đối mặt với những mất mát trong cuộc sống. Người thì để nó gặm nhấm, hủy hoại bản thân họ; người thì kiên cường và cười vào những đớn đau đó. Orvar thì chọn cách lảng tránh, không nghĩ, không nói, không nhìn, cố gắng cách ly mình khỏi những ký ức bi thương. Cậu ghét cái xứ này, cái ngày này, và nhất là bức tượng này. Nó cứ đứng trơ trơ ở đó như một lời nhắc nhở. Cha mày chết rồi! Orvar bất giác mím chặt đôi môi mỏng, trong lòng dâng lên một chút đắng cay phẫn nộ. Gió lạnh vẫn điềm nhiên thổi, đùa giỡn với những ngọn lửa xanh.
“Nhìn thế nào vẫn thấy phần mắt không giống nhỉ?” Đại Pháp sư Alvis Heidrun, người đứng đầu Frostmost và cũng là ông ngoại của cậu vừa cất tiếng hỏi vừa híp híp mắt như đang cố gắng tìm ra khiếm khuyết trên bức tượng. Tà áo chùng trắng toát đến bên cạnh Orvar lúc nào mà cậu không hề hay biết. Giọng ông trầm và cứng cỏi giống như cơn gió bắc thổi qua những cành thông hùng vĩ, đủ mạnh để làm những cành cây cổ thụ rung lên.
“Cháu không rõ.” Orvar đáp nhẹ hẫng, cố che giấu những cảm xúc chớm dâng lên trong lòng nhưng vẫn len lén xem xét gương mặt Sigurd. Kỹ thuật điêu khắc của nghệ nhân Frostmost nổi tiếng khắp cõi Hetra. Những pho tượng họ tạc ra đều trông sống động giống hệt người thật. Orvar từ đó đến giờ vẫn luôn say mê những bức tượng Hải Thần trong Đại Sảnh tháp Đại Hội Đồng nhưng riêng bức tượng của cha thì cậu chưa bao giờ dám nhìn kỹ.
“Cháu nhìn xem. Mắt phải của Sigurd to hơn mắt trái một chút. Bọn Pháp quân dưới trướng cảm thấy Sigurd rất đáng sợ khi bị nó trừng mắt nhưng ông thì chỉ thấy buồn cười.” Đại Pháp sư vừa nói xong liền phát ra những tiếng cười khùng khục làm bộ râu bạc trắng khổng lồ dài đến ngang bụng cũng rung rinh theo. Âm thanh kỳ quái của ông làm tảng băng trong lòng cậu như dần tan ra. Alvis vẫn luôn biết cách khiến cậu mở lòng. Ông đã chăm sóc cho cậu từ nhỏ. Nhờ có ông mà những ngày tháng vắng cha mới trở nên nhẹ nhàng hơn. Trong Alvis giống như có hai con người tồn tại song song. Một hài hước, kỳ kỳ quái quái mỗi khi ở bên cậu. Một nghiêm khắc, quyết đoán khi ông thượng trên ngai Đại Pháp sư.
“Năm nào đến ngày này ông cũng không thấy cháu đâu. Năm nay sao cháu lại đến vậy?” Alvis không giấu được sự tò mò.
“Ông kể lại cho cháu nghe lần nữa đi. Cha đã hy sinh như thế nào vậy?” Orvar lảng tránh câu hỏi. Cha cậu chết như thế nào chẳng lẽ cậu không rõ sao? Câu chuyện này dù cậu không muốn nghe thì cũng bị hàng trăm cái miệng ngoài kia xoáy vào lỗ tai. Chiều ngày 20 Cung Nhân Mã năm 4000, Hiệp sỹ Henry Surge bên phe Đế Quốc Kim Cương đã không ngại huỷ hoại danh dự của chính hắn mà dùng mưu hèn kế bẩn, ném một nắm cát che mờ đôi mắt cha cậu. Hắn muốn trả thù Sigurd vì trước đây từng bị ông chém mù mắt trái. Henry vung lưỡi gươm xé gió lao tới, xuyên thủng quả tim Tổng Pháp quân Icenstaff và cướp đi sinh mạng vị anh hùng.
“Bị phản bội…” Ông Alvis khẽ thì thầm, nhỏ đến nỗi Orvar không dám tin vào tai mình, nhưng những từ đó đủ trọng lượng để đập tan những suy nghĩ lơ đễnh trong đầu cậu. Cậu sững sờ quay phắt về phía Alvis. Cậu có nghe lầm không? Cha chết do bị phản bội sao? Trước khi cậu kịp mở miệng hỏi lại cho rõ thì tiếng chuông từ tháp Đại Hội Đồng bỗng ngân vang, báo hiệu đã đến giờ làm lễ tưởng niệm. Orvar giật mình xoay về hướng toà tháp chuông, đến khi nhìn lại thì tà áo choàng trắng của ông Alvis đã biến mất sau cánh cổng tháp Đại Hội Đồng.
Orvar tự trấn tĩnh chính mình. Chắc là cậu chỉ nghe nhầm thôi. Câu chuyện về cái chết anh dũng của cha cậu được chính ông Alvis kể lại cho toàn dân trên đảo. Lúc đó cậu cũng có mặt ở quảng trường và nghe không sót một chữ nào. Đến mấy năm sau vẫn còn có người bàn tán về chuyện này. Orvar nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần thêm mắm dặm muối của người dân, nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ thấy ai nhắc đến chi tiết phản bội cả.
Bỗng, tiếng người ồn ào từ phía xa vọng lại kéo cậu ra khỏi dòng suy nghĩ. Orvar trải tầm mắt từ quảng trường Crescent xuống triền đồi White Head. Những người dân đảo khắp chốn từ ông già cho đến trẻ nhỏ đều vội vã bỏ lại những công việc dở dang để đến hành lễ. Tất cả đều mặc áo chùng tím và đem theo lễ vật. Trên tay họ là những bó hoa bạch đầu ông màu tím nhạt thường được dùng trong nghi thức mai táng hoặc lễ tưởng niệm. Không chờ họ đến gần, Orvar đã vội vã lách vào một góc khuất. Mái tóc đen dài lẫn vào những gốc thông cao vút. Cậu không muốn bị soi mói bởi những ánh mắt thương hại đó.
Đi đầu đoàn người, không ai khác hơn chính là Olivette Heidrun, mẹ của cậu. Trên tay bà là một khay hương liệu, hoa bạch đầu ông, và một vò rượu tuyết. Olivette tuy đã có tuổi nhưng vẫn rất yêu kiều. Bước chân bà nhanh nhẹn, tuy có phần gấp gáp nhưng vẫn làm nổi lên dáng người dong dỏng cao cùng mái tóc đen mượt trông đến huyền bí. Những người dân đảo đi phía sau đều cố ý giữ một khoảng cách nhất định. Không phải vì họ kính trọng người thân của vị anh hùng, mà vì họ sợ bà Olivette.
Mẹ của cậu là một Tiên tri. Và Tiên tri, cho dù là ai đi chăng nữa, luôn luôn bị xa lánh, bởi lẽ họ chỉ có thể nhìn thấy được những tai ương sắp đến. Người ta cho rằng nhìn thấy Tiên tri là xúi quẩy, nghe Tiên tri nói là sắp rước họa vào thân. Trước đây, họ kiêng dè Olivette do bà là vợ của Sigurd - một Tổng Pháp quân lẫy lừng. Từ ngày Tổng Pháp quân mất đi, mẹ cậu càng bị người dân né tránh, lạnh nhạt. Một số người còn độc miệng bảo rằng, sở dĩ cha cậu tử trận là vì lấy phải một người đàn bà hắc ám. Xưa nay, vị Tiên tri nào cũng được định sẵn một cuộc sống cô quạnh bị người xung quanh xa lánh đến hết đời. Nơi duy nhất chứa chấp họ chính là bên trong tháp Đại Hội Đồng, nơi họ lặng thầm dùng tài năng thiên bẩm của mình để bảo vệ đảo quốc.
Tuy vậy, những hy sinh và cống hiến đó không đủ để xoá nhoà đi những định kiến quái gở mà người ta gán lên các vị Tiên tri. Vốn dĩ mẹ cậu cũng sẽ chịu chung số phận với những người tiền nhiệm, bất ngờ thay, bà lại trở thành vợ của một Tổng Pháp quân. Những tưởng chuyện này sẽ dần thay đổi cách nhìn của mọi người về Tiên tri, rằng họ cũng đáng nhận được sự tôn trọng. Nhưng ai ngờ chính cuộc hôn nhân đó lại quay lại cắn mẹ con bà ngay sau khi Sigurd qua đời. Những khinh bỉ bị dồn nén do uy danh cha cậu cuối cùng cũng có cơ hội thoát ra, xối xả lên người mẹ con cậu. Đều là một lũ vong ơn bội nghĩa! Orvar nghiến chặt răng khi thấy điệu bộ rụt rè của những người dân đảo ngay sau lưng bà Olivette. Đấy là lại thêm một lý do nữa để Orvar muốn biến mất khỏi hòn đảo này và không bao giờ quay trở lại.
Không giống như con trai mình, bà Olivete là một Phù thuỷ mạnh mẽ và ngoan cường. Bà vẫn luôn ngẩng cao đầu mà sống bất chấp những lời quàng xiên. Đôi mắt sáng ngời của một nhà Tiên tri luôn biết tảng lờ những kẻ ác mồm ác miệng, bởi lẽ cho dù người xung quanh đối xử với bà ra sao, phép Tiên tri vẫn là vận mệnh không thể chối bỏ. Olivette vẫn phải đưa ra lời cảnh báo mỗi khi tai hoạ sắp ập đến cho dù điều đó có khiến bà trở thành con quạ đen xấu xí trong mắt ai đi chăng nữa. “Mẹ vẫn là tấm khiên che chắn cho gia đình ta và cả đảo quốc.”
Đoàn người ngay hàng thẳng lối lầm lũi tiến lên đồi White Head, tập trung tại quảng trường Crescent trước cổng chính tháp Đại Hội Đồng. Gió bắc nhè nhẹ thổi khiến những tà áo chùng tang lễ trông như những đám mây màu tím dập dềnh trong ánh lửa xanh, bầu không khí tràn ngập vẻ ma mị của những bí tích cổ xưa. Người Frostmost tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi thân xác dưới dạng một cơn gió và quay về với Thiên Thần - người Cha Cả của vạn vật. Lửa có thể tàn, sông có thể cạn, cây cối có thể mục nát đi, nhưng những cơn gió luôn trường tồn vĩnh viễn. Đó chính là cuộc sống đời sau mà Cha Cả dành riêng cho người Frostmost.
Bà Olivette tiến đến bàn thờ đặt gần cổng tháp và dưới bóng cây sồi tuyết sum suê loà xòa những cành lá trắng phau. Olivette trông có vẻ hốc hác. Năm nào cũng vậy, cứ đến khoảng thời gian này là bà lại mất ngủ vì bị ám ảnh bởi cơn ác mộng ngày đó. Bà khuỵ gối bày lễ vật lên bàn thờ, suối tóc đen dài rũ xuống trên nền tuyết trắng. Bạch đàn hương được đốt lên toả một mùi thơm ấm áp thoang thoảng trong không gian. Đây có lẽ là thứ duy nhất mang hơi ấm ở Frostmost. Mùi bạch đàn luôn luôn khiến Orvar nhớ đến những bài hát ru của mẹ. Cậu lớn lên trong thời chiến nên chưa bao giờ có cha bên cạnh. Sigurd bị cuốn vào những buổi tập huấn khắc nghiệt và những trận giao tranh không hồi kết với Đế Quốc Kim Cương, bỏ lại hai mẹ con cậu bơ vơ trong lo lắng.
Ngắm nhìn làn khói xám mang theo mùi hương ấm áp uyển chuyển hoà quyện trong không khí, Olivette bất chợt nhớ đến Orvar. Bà nhìn quanh quất tìm kiếm cậu con trai. Orvar bắt gặp đôi mắt mẹ, cậu liền vội vã rụt vào nấp sau những bóng cây thông xung quanh quảng trường. Olivette nhìn quanh quẩn vài vòng rồi mỉm cười tiếp tục chuẩn bị bàn lễ. Tuy không thấy cậu, nhưng bà biết Orvar đang ở đây. Đó là quyền năng Thấu Thị của một nhà Tiên tri. Bà có thể linh cảm được sự hiện diện của một người hay vật nào đó nên cho dù cậu ở đâu, Olivette vẫn luôn tìm ra cậu.
Lúc Olivette gần sắp xếp xong bàn thờ thì một luồng khói trắng bốc lên kế bên Olivette và Đại Pháp sư chậm rãi bước ra từ cuộn khói đó. Ông đã thay tang phục màu tím và cầm theo cây quyền trượng làm từ khối băng vĩnh viễn không tan trong đền thờ Hải Thần. Đại Pháp sư khẽ gật đầu với con gái mình, ánh mắt đong đầy sự quan tâm. Bà Olivette mỉm cười nhẹ nhàng rồi lùi về phía đám đông. Họ cũng lùi lại một bước, cố ý đứng cách xa bà một chút. Olivette không thèm để ý đến bọn họ, đôi mắt đượm buồn đang mải nhìn chăm chăm vào bức tượng Sigurd. Không biết trong tâm trí bà đang nhớ lại những kỷ niệm nào với Tổng Pháp quân quá cố. Bỗng giọng nói ồm ồm của Alvis cắt ngang dòng suy nghĩ, Olivette hướng sự tập trung về phía cha mình. Đại Pháp sư bắt đầu cất tiếng vang vọng khắp quảng trường. Alvis vui tính đã biến mất, thay vào đó là một Đại Pháp sư quắc thước, nghiêm nghị. Bình thường, các nghi lễ trên đảo đều do Đại Tư tế Magni cử hành. Tuy nhiên, Tổng Pháp quân Sigurd Icenstaff lại là con rể, cũng tính là người nhà với Alvis nên Đại Pháp sư phải chủ trì nghi thức này.
Alvis hắng giọng rồi bắt đầu đọc bài kinh Tiễn Đưa. Phía dưới, Olivette và cư dân Frostmost cũng lầm rầm đọc theo. Họ cúi đầu thành kính, chống quyền trượng xuống đất ngay phía trước ngực. Orvar dõi mắt nhìn nghi lễ, trong lòng dâng lên một cảm giác rất khó tả. Cậu buồn rầu, nhưng cũng oán giận; thương xót, nhưng lại rất phẫn nộ.
“Cha Cả ban cho tôi sự sống và đón chờ tôi trở về. Dù ra đi vì thời gian tôi đã tận hay vì bị cướp mất mạng này; dù để lại cha, mẹ, vợ, chồng, hay con cái, tôi cũng ngoan ngoãn vâng lời mà quay về với vòng tay Cha rộng mở. Đời tôi cống hiến cho dân tôi, cho đảo tôi. Nay nhiệm vụ đã hết. Tôi quay về dù trong vinh quang hay tội lỗi. Mạng sống này cúi xin Cha Cả đón nhận trong công bình, trong yêu thương, và trong khoan thứ. Hãy để tôi hoá thành ngọn gió và bay về bên Cha.”
Không gian vang lời kinh thành kính hoà vào tiếng tù và ngân vang trên tháp vọng xuống. Ngọn gió bắc nhói buốt vút qua những đốm lửa xanh lạnh lẽo. Một thứ lửa giả tạo. Orvar run rẩy nhìn những người dân mà cha cậu đã bỏ cả gia đình, bỏ cả mạng sống để bảo vệ để họ không ngần ngại chà đạp, khinh bỉ, xa lánh mẹ con cậu. Orvar cảm thấy uất ức đến ứa nước mắt. Bao nhiêu năm trời, cậu vẫn giằng xé giữa sự kính phục và cơn giận đối với Sigurd. Cậu bấu chặt lấy thân một cây thông, cố gắng dồn nén cảm xúc.
Đại Pháp sư giơ cao trượng phép, “Vì sự hy sinh cao cả cho những người con của đảo.Vì sự kế thừa di sản của Bắc Thần. Chúng ta cảm ơn và an ủi ngọn gió Sigurd Icenstaff. Hãy yên nghỉ.” Đám đông đồng loạt quỳ xuống, cúi đầu, tựa trán vào quyền trượng đặt trước mặt. Ngay lúc đó, một đoàn Pháp sư gánh từ cảng Misty đến một chiếc túi khổng lồ lúc nhúc những con cá tươi rói và đặt ở trước bàn thờ. Đây là một trong những nghi thức không thể thiếu được của người Frostmost mỗi khi cúng tế những người đã khuất.
Chiếc túi vừa mở ra thì ngay lập tức đàn Ngư Điểu từ trên trời lao xuống thi nhau xâu xé những con cá đang giãy đành đạch cố gắng trốn thoát. Ngư Điểu là một loài đại bàng khổng lồ có bộ lông trắng toát và một chiếc đuôi cá dài gấp đôi cơ thể. Nó có thể bay trên trời cao và lặn xuống biển sâu để săn bắt. Chính nhờ khả năng di chuyển linh hoạt trên trời lẫn dưới biển, cùng với sức mạnh và tốc độ đáng nể nên Ngư Điểu được xem là linh vật của Frostmost, đặc biệt chúng được xem như vật tượng trưng cho những chiến binh đã khuất. Chính vì lẽ đó mà trong những buổi lễ tưởng niệm, không bao giờ thiếu nghi thức dâng vật phẩm cho Ngư Điểu nhằm thể hiện sự kính trọng đối với linh hồn các Pháp quân đã hy sinh.
Ánh lửa xanh loang loáng rọi vào lớp vảy cá bàng bạc nhuốm máu đỏ tươi trông như những con mắt hận thù liên tục nhắm mở. Mùi hôi tanh sực nức trong không khí, lan đến tận những tán thông nơi Orvar đang nấp. Cậu đưa tay lên che mũi, hàng mày chau lại vì ghê tởm, cổ họng siết chặt để ngăn một cơn buồn nôn đang lăm le dâng lên từ dạ dày. Đây không phải là lần đầu tiên cậu chứng kiến cảnh tượng này, nhưng cứ thấy bãi máu đen thẫm đọng lại trên nền tuyết trắng và ngửi cái mùi tanh tưởi đến lợm giọng đó thì Orvar lại càng thêm chán ghét cái xứ sở này. Tuy nhiên, phần tiếp theo mới là thứ khiến người ta thực sự kinh sợ.
Ngay khi bầy Ngư Điểu vừa bay đi, toàn bộ dân chúng liền chen chúc tranh nhau bôi trát máu cá lên mặt. Họ cho rằng máu của những con cá vừa dâng hiến cho Ngư Điểu là thứ có thể đem đến may mắn và bảo hộ họ khỏi những biến cố trong cuộc sống. Trước mắt Orvar là một bầy người ngụp lặn trong mớ xương thịt bầy nhầy hôi tanh. Cậu quay mặt đi chỗ khác, không còn đủ can đảm để nhìn tiếp.
Trong lúc đó, Olivette chậm rãi tiến lại bàn thờ, thắp lên ba cây nến tượng trưng cho Tam Thần phương bắc và đặt lên khay. Bước chân bà có phần rụt rè. Tám năm trôi qua rồi nhưng Olivette vẫn chưa bao giờ quen với sự vĩnh viễn ra đi của người chồng yêu dấu. Có những đêm Orvar thức giấc, cậu nhìn thấy mẹ cũng mất ngủ, đứng trước cửa nhà và dõi mắt về phía biển cả mênh mông, hệt như những ngày mà Sigurd vẫn còn rong ruổi chinh chiến ngoài khơi xa.
Bà Olivette vừa định mang nến đến gần bức tượng, nhưng từ đâu có một luồng gió rít gào bất ngờ thổi tới, hất tung ba ngọn nến, đẩy bà ngã ngửa vào vũng máu cá. Đám đông nhất loạt dạt ra xung quanh. Bộ áo chùng tím và mái tóc đen dài ngập trong thứ máu sền sệt hôi hám. Bất thình lình, sấm sét chói loà đánh thẳng xuống bức tượng Sigurd. Ánh sáng loá mắt bao trùm cả quảng trường kèm theo tiếng rền vang đinh tai nhức óc. Đôi mắt Olivette bỗng long lên chỉ còn thấy tròng trắng, miệng bà há hốc kêu gào những âm thanh quái dị, toàn thân run rẩy và co giật, mái tóc vốn đen dài nay hoá trắng xoá, bết bát máu khô đen thẫm. Ba ngọn nến bay vòng quanh trên người Olivette, bùng cháy dữ dội. Ánh sáng xanh ngắt của chúng toả rợp một góc quảng trường. Bà đang nhìn thấy một viễn cảnh. Orvar đã từng trông thấy mẹ cậu có viễn cảnh rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ gặp hiện tượng kỳ quái và đáng sợ như thế này. Tâm can cậu nhộn nhạo. Chuyện gì đây? Ngày này tám năm trước cậu đã mất cha. Làm sao cậu có thể chịu được nếu lại mất cả mẹ chứ?
Đám đông lúc này đang co cụm vào với nhau, sợ hãi chỉ trỏ. Orvar chạy vụt đến chỗ mẹ, định lay bà tỉnh lại, nhưng ông Alvis giơ trượng phép ra chặn ngang ngực cậu. Orvar cố gắng vùng ra nhưng cậu không thể kháng cự lại sức mạnh của Đại Pháp sư. Cậu giận dữ quay sang định năn nỉ ông cứu lấy mẹ thì đột nhiên, Olivette thét lên một tiếng đầy kinh hoàng rồi bất tỉnh ngay tại chỗ. Ba cây nến cháy rụi thành những đốm tro màu xanh trắng lác đác bay trong không khí như bụi thuỷ tinh. Gió lặng. Ánh mắt mọi người đổ dồn vào bà Olivette rồi lại lấm lét nhìn qua Đại Pháp sư. Cả quảng trường phủ kín một sự im lặng chết chóc.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK