Lúc này đại sảnh đã loạn tùng phèo, một nửa bàn bày cơ man những chia lọ, nửa còn lại là hàng đống bột phấn vương vãi. Ở giữa mớ hỗn độn đó, Vương Kính Nguyên nắm một góc giấy nhỏ, liên tục đốt bột phấn bốc cháy toả khói để hun tờ giấy, lúc lại dùng chất lỏng có màu sắc kỳ dị để bôi bôi trét trét.
Để bảo toàn mật thư hết mức có thể, Vương Kính Nguyên cắt lấy bốn góc giấy, dùng dao lưỡi xéo cắt tờ giấy thành một góc nhọn. Như vậy mới có thể bảo đảm phần góc cắt đi có chữ viết, thuận tiện tiến hành nhiều thử nghiệm hơn và cũng không làm bẩn chủ thể mật thư, quả là một sáng kiến rất thông minh.
Trong thiên hạ này có vô số cách để ẩn giấu chữ viết, Vương Kính Nguyên chưa chắc đã biết tất cả, hắn thử liên tiếp khoảng mười cách song tờ giấy vẫn trống trơn.
Ký Thanh thấy số chai lọ chưa dùng tới càng lúc càng ít, bèn nhíu mày nói: “Lão Vương, bảo bối của huynh chẳng còn lại bao nhiêu nhỉ.”
Giang Thu Bình dở khóc dở cười liếc nhìn cậu ta, nhủ bụng người hết đồ dự trữ thì không vội mà kẻ hóng hớt thì đã rầu trước rồi.
Lúc cậu nói, Vương Kính Nguyên lại đổ một nhúm bột phấn nhỏ ra, dùng hương dài để đốt, hắn tức giận vặc lại: “Ta biết chứ…… Ơ? Hình như hiện lên rồi này!”
Cả nhóm chăm chú quan sát, chỉ thấy màn khói mù kia bắt mắt đến kỳ dị, không phải màu trắng, xám, đen bình thường mà sặc sỡ đủ màu, phủ kín một đầu mật thư.
Ai nấy đều trầm trồ ngạc, sau khi hoàn hồn lại bèn nhìn góc tờ giấy kia, quả nhiên thấy xuất hiện một ít màu xám nhạt.
Càng hun khói, màu xám dần dần hiện càng rõ hơn, cứ như trên trời tích tụ mây đen. Trước khi nó hiện ra hết, Giang Thu Bình tò mò cười nói: “Đạo trưởng, đây khói gì thế, sao mà có nhiều màu hay vậy?”
Vương Kính Nguyên ngẩng đầu lên, đắc ý trả lời: “Đây là khói vu sắc, không phải ta nói ngoa chứ trên đời này có không quá mười người biết chế loại khói này đâu.”
Nếu lời này là thật thì mình gặp vận may lớn rồi, ra ngoài đi dạo thôi mà cũng vớ được cao thủ hiếm có khó tìm trên đời, Lý Ý Lan buồn cười nghĩ thầm, dẫu vậy thì công lao này vẫn thuộc về Tri Tân.
Y không tham gia vào vụ án, cũng đã nói bản thân mình không giúp được gì, ấy thế mà từ nam châm cho đến Vương Kính Nguyên, rồi từ thạch tượng sinh cho đến suy đoán hôm nay, nếu thiếu mất y thì chắc chắn không thể tiến được tới bước này. Từ tận đáy lòng, Lý Ý Lan vẫn luôn biết ơn Tri Tân.
Trong lúc hắn còn đang bận “uống nước nhớ nguồn” thì ở bên cạnh, Ký Thanh không tin tưởng nhân cách của Vương Kính Nguyên nên đã quay sang bảo với Bạch Kiến Quân: “Bạch đại hiệp, Khoái Tai môn các vị am hiểu thứ này, có người nào biết chế món này không?”
Bạch Kiến Quân thì không biết món này thật, tuy ông ta đường đường là chưởng giáo của một môn phái nhưng không phải việc gì cũng đến tay, thứ ông ta biết chỉ nhiều hơn những người ngồi đây thôi chứ không phải là cái gì cũng biết tuốt.
Thấy đến cả ông ta cũng không biết, Ký Thanh bấy giờ mới vỗ vai Vương Kính Nguyên, đưa ra lời khen muộn màng: “Vậy huynh đúng thật là lợi hại đấy.”
Vương Kính Nguyên phổng mũi đáp: “Tất nhiên.”
Ký Thanh vỗ vai hắn, cái tay cũng không nhịn được mà táy máy chọt vào cái lọ tròn nhỏ đựng khói vu sắc kia, muốn nghiên cứu xem đây rốt cuộc là loại bột phấn gì. Nhưng ngón tay vừa chọt vào trong lọ thì cậu bỗng khựng lại, nhăn mặt nói: “Khói này bốc lên mãi không tan, khá giống khói phân sói, đừng bảo trong này cũng là phân giống phân trâu phân sói gì nhé?” (Khói phân sói được đốt lên dùng làm khói báo động.)
Vương Kính Nguyên ngẩng lên liếc xéo cậu một cái, nâng niu cầm lấy cái lọ nhỏ kia rồi để nó cách ra xa một đoạn, ghét bỏ nói: “Nói gì gớm thế hả, phân trâu với chả phân sói cái gì! Đây toàn là hương liệu thôi đấy, đắt xắt ra miếng cả, tránh cái tay ra xa chút, đừng có làm vương vãi.”
Ký Thanh hờ hững tặc lưỡi với hắn.
Bạch Kiến Quân lại có hứng thú, ông ta chợt lên tiếng: “Hương liệu gì mà có thể tạo ra khói nồng như thế này vậy? Ta chưa từng thấy bao giờ, đạo trưởng có thể giúp ta được mở mang tầm mắt không?”
Cái này cũng có cùng nguyên lý giống chế tương đậu nành, cách chế biến không phải bí mật gì, mà tất cả bí mật nằm ở tỷ lệ phối chế. Dù Vương Kính Nguyên có nói thì người khác cũng không chế được, cho nên hắn rất hào phóng kể ra mà không nghĩ ngợi gì.
“Tất nhiên là được, thật ra đơn giản lắm, hương liệu đương nhiên không thể tạo ra nhiều khói được, nhưng rêu và phèn chua thì có thể. Chính là loại rêu tươi mới ẩm nước mọc trên cây tùng sau cơn mưa đó, dùng lá to bọc nó lại rồi đặt lên bếp nơi không có lửa lớn để hơ cho khô, sau đó mài thành bột, trộn lẫn với phèn chua và bột hương liệu, đốt cháy lên là sẽ thành thế này.”
Hắn không đề cập đến việc mình dùng loại hương liệu nào, đây là tuyệt kỹ độc môn của người khác, Bạch Kiến Quân cũng không tiện hỏi sâu, bèn gật đầu tỏ ý đã hiểu.
Lý Ý Lan hỏi tiếp: “Vậy tờ giấy này đã bị giở trò gì, tại sao chỉ khi hun bằng loại khói này thì mới có phản ứng?”
Vương Kính Nguyên: “Bởi vì chữ trên giấy được viết bằng cát bạch cương mài qua nước, loại cát này khi ngâm nước sẽ không có màu sắc, cũng không dễ loang ra, sau khi khô sẽ không nhìn thấy được. Phải dùng khói vu sắc hun, bụi khói sẽ dính vào cát bạch cương, chữ mới hiện ra. Ầy, nhắc Tào Tháo Tào là Tháo đến.”
Mọi người nghe vậy thì xúm lại gần xem, chỉ thấy góc trên cùng bên trái xuất hiện một nét ngang và một nét vuông.
Giang Thu Bình vuốt cằm suy đoán: “Đây là chữ gì nhỉ, Cao? Thúc? Phó……”
Trương Triều dứt khoát ngắt lời y: “Đoán được mỗi một chữ thì cũng vô ích, nếu đã tìm ra biện pháp thì cứ chờ đạo trưởng xử lý xong rồi hẵng tính.”
Mọi người tất nhiên không có ý kiến, ai nấy đều lẳng lặng nhìn chằm chằm Vương Kính Nguyên với vẻ chờ mong.
Từ lúc về Vương Kính Nguyên đã cắm đầu làm việc đến nỗi quên cả ăn cơm, bây giờ bụng đói cồn cào mà cũng chẳng dám kêu, đành cặm cụi đốt khói hun mật thư. Chẳng mấy chốc khắp phòng đã bốc khói nghi ngút, song hiệu quả lại không quá rõ rệt. Bởi vì cát bạch cương phải hơ cả buổi mới có tính kết dính, không giống sữa mẹ hay nước cơm chỉ cần hơ một tí là khô ngay.
Trong thời gian chờ chữ viết hiện lên, Lý Ý Lan liền lấy bức thư của Tri Tân ra.
Như bình thường thì hắn sẽ quay sang đưa cho quân sư Giang Thu Bình xem trước, nhưng bây giờ có mặt Bạch Kiến Quân ở đây, xuất phát từ sự tôn trọng đối với khách nhân cũng như sự tín nhiệm đối với ngón nghề tinh vi của Khoái Tai môn, hắn bèn đưa bức thư cho Bạch Kiến Quân.
Trước đi đưa, Lý Ý Lan đã âm thầm gập một góc giấy lại, để câu “Trời vẫn chưa ngơi lạnh” kia hướng ra mặt sau.
Hắn cũng không nói là cấm những người khác lật lại xem, chỉ là bỗng nhiên không muốn để người khác nhận ra sự quan tâm mà Tri Tân dành cho hắn thôi.
Lý Ý Lan vừa đưa vừa gọi mọi người chú ý: “Ta cũng có một bức thư do Tri Tân mới gửi tới, y nhắn là đã suy đoán được nguyên lý của thạch tượng sinh, mọi người xem đi rồi chúng ta thảo luận một chút nhé. Nào, tiền bối, xin mời ngài trước.”
Lúc này ngay cả chính Lý Ý Lan cũng không nhận ra rằng, xưng hô của hắn với Tri Tân đã thay đổi.
Bạch Kiến Quân là người trong giang hồ, không quan tâm quan cao hơn dân một bậc, cũng không cảm thấy việc mình được xem trước thì có vấn đề gì, cứ thế giơ tay nhận lấy luôn.
Thư không dài, Bạch Kiến Quân nhanh chóng đọc xong, vì đã chứng kiến quá nhiều sự đời nên đối với ông ta mà nói, những bước làm rắc rối trong thư cũng không khó hiểu lắm. Nhưng đọc hiểu được và nghĩ ra được là hai việc khác nhau, Bạch Kiến Quân tự thấy chính mình cũng không thể phán đoán nổi đường đi nước bước phức tạp như thế này.
Đây vừa khéo lại chính là năng lực cần thiết trong bạch cốt án. Vụ án này tập hợp quá nhiều sự việc dường như “bất khả thi” ở nhân gian. Bởi vì lúc vụ án xảy ra dây mơ rễ má với quá nhiều người, do đó ngoại trừ mấy bộ xương khô, toàn bộ chứng cứ khác đều bị tiêu huỷ một các tự nhiên hoặc do con người, nếu muốn phá án chỉ có thể đoán mò rồi căn cứ vào chiêu trò của nghi phạm mà suy luận ngược về trước.
Hòa thượng viết thư quả thực không đơn giản, nếu y có ý gia nhập Khoái Tai môn thì Bạch Kiến Quân sẽ vui vẻ hoan nghênh, nhưng thân phận đối phương cao quý thế kia, chắc chắn không có dự định ấy đâu.
Bạch Kiến Quân xem xong bèn đưa tờ giấy ra, Giang Thu Bình chủ động nhận lấy, bắt đầu túm tụm cùng những người khác để xem. Lát sau, y đọc xong trước tiên, bèn bước ra khỏi nhóm, nhường chỗ cho người khác.
Y bước đến bên cạnh Lý Ý Lan, vẻ mặt vừa buồn cười vừa ẩn chứa sự ngưỡng mộ, nói: “Biện pháp lạ lùng như thế, sao đại sư lại nghĩ ra được nhỉ?”
Lý Ý Lan cũng rất đồng cảm, cười bảo: “Y chưa kịp kể, chờ hôm nào rảnh ta sẽ tới Chiêu Đàn tự hỏi xem. Tạm không bàn chuyện đó nữa, ngươi đọc xong thì thấy biện pháp này có khả thi không?”
Giang Thu Bình: “Đã giải thích được vì sao tượng gỗ có thể điều khiển bộ xương mà không để lại dấu vết, nhưng ta vẫn còn một thắc mắc nữa. Ngài xem, quả cầu bằng đường trong tay tượng gỗ có thể bị kiến ăn mất, nhưng trên bộ xương chắc chắn phải có tượng gỗ, vậy bức tượng gỗ đâu? Nó đi đâu rồi?”
Lý Ý Lan ngẫm nghĩ một thoáng rồi nói ra suy đoán của mình: “Trước đó tượng gỗ nhất định cũng được cố định trên bộ xương bằng cách một phương pháp nào đó, nhưng sau khi nó “viết” chữ xong, tượng gỗ đã tách rời ra khỏi bộ xương, rơi xuống đất……”
Nói tới đây Lý Ý Lan bỗng nhiên ngừng lại, bất chợt vỡ lẽ tại sao cùng là thạch tượng sinh mà ở trong cuốn đàm lục Tri Tân nhắc tới thì nó là một chiếc hộp vuông nhỏ khắc hình hoa sen, còn sang tới bạch cốt án nó lại biến thành tạo hình tượng Thấp Bà.
Bởi vì vào tiết hàn y ở Nhiêu Lâm, người dân đi viếng mộ sau khi hoàng hôm buông xuống, không chỉ mang theo hương và tiền giấy mà còn có thể mang theo một cặp nến đỏ được chạm trổ thành hình các lộ Bồ Tát.
Nếu như vậy, vào đêm trước sắc trời tối tăm, hơn nữa ảnh lửa màu đỏ trong nghĩa địa chiếu lên bức tượng rơi dưới đất, sẽ rất dễ khiến người đi viếng mộ nhìn nhầm nó thành cây nến đổ, cho dù có người nhặt thì cũng chẳng ai cảm thấy lạ thường.
Thế là thạch tượng sinh có thể biến mất khỏi hiện trường vụ án mà thần không biết quỷ không hay —— Sau khi làm sáng tỏ khúc mắc này, Lý Ý Lan lập tức sinh lòng kính nể.
Không phải hắn sùng bái hay sợ hãi kẻ đứng sau bày mưu tính kế, chỉ là khi đối mặt với kẻ địch mạnh hơn mình quá nhiều ở về một phương diện nào đó, con người ta khó tránh khỏi cảm giác khó vượt qua núi cao.
Lý Ý Lan thừa nhận kẻ chủ mưu này thông minh hơn mình rất nhiều, hơn nữa còn cực kỳ giỏi lợi dụng cơ hội và hoàn cảnh để che giấu manh mối, có điều không biết nhân vật đa mưu túc trí nhường ấy sao lại lưu lạc tù oan, bước tới lựa chọn trở thành một kẻ phạm pháp.
Bây giờ bọn họ tra án cứ giống như ngắm báo qua ống tre, Lý Ý Lan vừa không biết làm sao, cũng chẳng có ai để hỏi được, chỉ có thể nghĩ thoáng ra, quyết định tạm thời không nghĩ tới chuyện này nữa. (Kẻ nhìn con báo qua ống tre thì chỉ thấy được vài cái đốm chứ không thể biết được toàn thân con vật, ý nói tầm nhìn hạn hẹp, kiến thức nghèo nàn.)
Giang Thu Bình thì trái lại, nỗi băn khoăn của y đơn giản hơn hắn nhiều.
Không biết có chuyện gì mà đang nói tự dưng hai mắt hắn nhìn thẳng đăm đăm, Giang Thu Bình tinh ý chờ đợi trong giây lát, cẩn thận quan sát vẻ mặt của Lý Ý Lan. Thấy hắn không còn nhíu mày nữa, cảm giác như đã vượt qua được băn khoăn nào đó, bấy giờ y mới xoè năm ngón tay quơ quơ trước mắt hắn.
Lý Ý Lan cảm giác có gì đó tiến lại gần mắt mình, liền vô thức định lùi ra sau, nhưng khi nhìn kỹ nhận ra đó là Giang Thu Bình, hắn mới không nhúc nhích nữa mà cười bảo: “Xin lỗi, ta lỡ thất thần.”
Giang Thu Bình điềm nhiên nói: “Không sao ạ, chúng ta nói tiếp đi, tượng gỗ rơi xuống đất, sau đó thì sao?”
Nhóm Ký Thanh cũng đã xem xong, đang lục tục bước tới. Lý Ý Lan tạm thời không để ý tới bọn họ, bắt đầu trình bày suy đoán vừa rồi của mình về tượng gỗ và nến.
Giang Thu Bình có lẽ cũng cảm thấy uy thế của đối phương khi có thể mưu tính không một kẽ hở, sắc mặt y liền trở nên khó coi.
Không thấy ai nói gì, Ký Thanh liền gặng hỏi bọn họ vừa thì thầm to nhỏ cái gì, Lý Ý Lan bèn thuật lại lần nữa, tiện thể hỏi Bạch Kiến Quân: “Tiền bối thì sao, ngài có phản bác hoặc thắc mắc nào không?”
Bạch Kiến Quân đứng cách hai người không xa, thính lực ông ta cũng nhạy bén nên nghe cả hai nói chuyện không sót câu nào.
Kỳ thực vấn đề của Giang Thu Bình cũng là một trong những vấn đề ông ta muốn hỏi, nếu đã có đáp án thì khỏi cần đề cập nữa. Tuy nhiên Bạch Kiến Quân vẫn còn một vài băn khoăn, ông ta đối diện với tầm mắt Lý Ý Lan, nói: “Xem như là có đi.”
“Một bộ xương không thể so với một người sống sờ sờ, nếu quấn dây lên người vậy muốn rút về thì cứ rút về là xong, nhưng bộ xương đầy rẫy khớp xương lồi lỗm nhấp nhô, khó mà đảm bảo cái tay gỗ kia sẽ không kẹt vào mối nối. Dựa theo cách trong thư viết thì cơ hội thành công hẳn là năm mươi – năm mươi, nhưng đối với một kế hoạch kín kẽ như thế, kẻ đứng sau hiển nhiên càng nghiêng về thủ đoạn không có sơ hở nào. Do đó ta cho rằng, suy đoán này là khả thi, thế nhưng có lỗ hổng.”
Ông ta nói quả có lý, nhưng Lý Ý Lan đã tự tìm cớ cho Tri Tân xong rồi.
Hắn nghĩ bụng Tri Tân đâu phải con giun trong bụng chủ mưu, có thể đoán được đến đây, bất kể có khả thi hay không thì cũng đáng để khen ngợi rồi.
Song làm người thì phải biết cầu thị, nếu đã phát hiện lỗ hổng thì việc này không nên chậm trễ nữa. Lý Ý Lan lập tức sai Ký Thanh đi mang bộ xương của Vu Nguyệt Đồng tới đây.
Bây giờ không kịp làm quả cầu đường, mọi người vót tạm bốn cái chêm gỗ để thay thế, tiếp đó buộc vào tứ chi của bộ xương theo như cách của Tri Tân, bắt đầu thử xem có kẹt hay không.
Sự thật chứng minh Bạch Kiến Quân nói trúng phóc, bề mặt tay gỗ và bộ xương đều không bằng phẳng nhẵn nhụi, thử năm lần thì đến ba lần bị kẹt, cả nhóm lần lượt đổi mấy kiểu buộc dây nhưng vẫn chẳng thể nào tìm ra bí quyết.
Điều an ủi duy nhất chính là Vương Kính Nguyên cuối cùng cũng làm chữ viết hiện ra rồi.
Lý Ý Lan cầm tờ giấy chắp vá lên xem, mí mắt bỗng giật giật.
Trên tờ giấy chỉ có vỏn vẹn sáu chữ: Xong việc rồi, rút quân thôi.
Bên phía nha môn đang hừng hực tra án, vậy bên phía thích khách rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mới có thể khiến thế lực ngầm tại Nhiêu Lâm đột ngột bỏ chạy?
Bọn chúng bất cẩn bại lộ? Hay sau khi gián điệp rút lui, triều đình hoàn toàn không điều tra được gì?
Nhưng trên thực tế suy đoán của hắn đều sai cả, vào ngày 18 tháng 12 khi mà màn đêm buông xuống, ở cách hơn ngàn dặm, vụ bạch cốt án thứ sáu bất ngờ xuất hiện ở Tiên Cư điện nằm sâu trong tầng tầng lớp lớp tường cung của Giang Lăng.
Lúc đó hoàng thái hậu đang đi ngoài thì thùng như ý bỗng nhiên tuôn trào bọt nước như suối, bọt nước ào ạt vọt thẳng lên cao, doạ thái hậu sợ đến mức ngã khỏi thùng. Rồi một bộ xương run rẩy trồi lên từ trong nước, viết xuống một chữ “Oan” màu xanh lục. (Thùng như ý hình như là bô đi 💩)
Song tất cả những chuyện ấy, tối nay đều cách toà thành Nhiêu Lâm này rất xa xôi.
Lý Ý Lan còn đang vùi đầu suy nghĩ thì một cai ngục bất thình lình chạy từ ngoài sân vào.
“Thưa đại nhân, có phát hiện mới! Tên câm kia, y, y là một thái giám, hơn nữa còn biết nói.”