Quyển 2 – Chương 15: Đương quyến luyến, hiệu kèn đã giục
Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong rằng nàng cũng sẽ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”
Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.
Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.
E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.
Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.
Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.
Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.
Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.
Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.
Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.
Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.
Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.
Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.
Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.
Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.
Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.
Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.
Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.
Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”
Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.
Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.
Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.
Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.
Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.
Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.
Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.
Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!
Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.
Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.
Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.
Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!
Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.
Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.
Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.
Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.
Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.
Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.
Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.
Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.
Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?
A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!
Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.
Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.
Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.
Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.
Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.
Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.
Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga[1] đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.
[1] Bướm trắng bốn cánh. (ND)
Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.
Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!
Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”
Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.
Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.
Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.
Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”
Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.
Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.
Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.
“Bác ơi, nhìn con đi”
“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói
“Biểu ca…”
Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.
Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.
Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.
Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”
Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”
Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”
Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.
Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.
Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!
Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”
Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.
Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.
Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.
A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.
Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.
Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.
Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!
Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.
Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảo chu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.
A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.
Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.
Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.
Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”
Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.
A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.
A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.
Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”
Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.
Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.
Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.
Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.
A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.
Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.
Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.
Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.
Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.
Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.
Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!
A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.
Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.
Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.
Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.
Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.
Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”
Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”
Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”
Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”
Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.
Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?
Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?
Trên sa trường, thua, tức là chết.
Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.
Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.
Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.
Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.
Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”
Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”
Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”
“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”
Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”
Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”
Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.
Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.
Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.
Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”
“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.
Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.
Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.
Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”
“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.
Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.
A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”
Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”
A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”
Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”
“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”
A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.
Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”
A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”
Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”
“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”
“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”
Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.
Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”
A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.
Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”
A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.
“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”
A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.
Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.
A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”
Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.
A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”
A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.
Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”
A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”
Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!
Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.
A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.
Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.
Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.
“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”
A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”
Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”
Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.
“Mộc Cận, đứng lại.”
Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”
Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”
Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”
“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”
“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”
Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”
Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.
A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”
Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”
A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?
Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.
Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”
Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”
A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.
Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.
A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”
Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.
A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.
Quyển 2 – Chương 16: Đào rụng tơi bời, người ly biệt
“Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”
Đối diện với đại quân dũng mãnh thiện chiến, hung tàn hiếu sát của Xi Vưu, binh sĩ Hiên Viên không khỏi nhụt chí, cả Phản Tuyền chìm trong không khí nặng nề chết chóc. Ly Chu và Tượng Võng đã phò tá Hoàng Đế suốt mấy ngàn năm, từng trải vô số trận chiến, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, nghĩ đủ mọi cách cũng không vực dậy được sĩ khí.
Vầng dương đằng Đông vừa nhô lên, ánh sáng chan hòa mặt đất, Phản Tuyền thành sừng sững cao ngất như được phủ một lớp phấn vàng, tỏa hào quang nhàn nhạt.
“Xem kìa! Cái gì kia?” Đám binh sĩ xôn xao kinh ngạc.
Dưới ánh nắng rực rỡ, chân trời phía Tây dường như đang đùn lên một vầng mây ráng bảy màu.
Vầng mây ráng từ từ bay lại gần, bây giờ mọi người mới trông rõ là một con chim cực lớn, bộ lông sặc sỡ đủ màu, đầu có mào, mỗi bên mắt có hai con ngươi, chính là Trùng Minh điểu, được xưng tụng là đệ nhất mãnh cầm của đại hoang.
Nhìn “đám mây ráng” bay có vẻ lững lờ nhưng thực tế tốc độ của Trùng Minh điểu rất nhanh, mọi người vừa nheo mắt toan nhìn cho kỹ, chợt thấy trên lưng Trùng Minh điểu cũng đang cõng một vầng dương, tỏa ánh vàng rực chói mắt. Vầng dương này cùng vầng dương đằng Đông phản chiếu lẫn nhau, tự như trên bầu trời xuất hiện hai mặt trời, tỏa sáng chói lòa khiến mọi người không mở nổi mắt.
Ly Chu và Tượng Võng tỉnh ra trước nhất, mừng rỡ đưa mắt nhìn nhau, cùng giơ tay lên hoan hô. Là ông ta! Gã thiếu niên từng thề trước mọi người, nhất định sẽ đưa Hiên Viên rời khỏi mảnh đất cằn cỗi ấy lại khoác áo giáp lên rồi!
Trùng Minh điểu lượn vòng phía trên Phản Tuyền, Hoàng Đế mình vận giáp vàng, oai phong lẫm liệt đứng sừng sững trên không, đưa mắt nhìn xuống bên dưới.
“Hoàng Đế, Hoàng Đế!”
Tựa hồ vầng dương ló dạng xua tan hết mây mù, sự xuất hiện của Hoàng Đế khiến cả Phản Tuyền thành bừng lên sức sống.
Giọng nói ôn hòa của Hoàng Đế thong thả vang lên: “Hiên Viên quốc từng được gọi là Hiên Viên tộc, nằm ở phía Tây Bắc đại hoang, đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn. Hồi trẻ tới Trung Nguyên du ngoạn, chỉ vì nói giọng Hiên Viên mà ta luôn bị người ta khinh miệt, thậm chí mua món nữ trang có giá một chút cho cô gái mình yêu quý cũng bị nghi là ăn cắp. Mấy ngàn năm trước, ta đã đứng trên Hiên Viên sơn hỏi tổ tiên các người có dũng khí theo ta ra khỏi Hiên Viên sơn hay không, bọn họ đều đồng thanh đáp: “có.” khí thế ngất trời! Vì câu trả lời của họ nên bây giờ các ngươi mới có Hiên Viên quốc, không phải lo miếng cơm manh áo, dù đi đến bất cứ đâu, hễ nói giọng Hiên Viên, đều được người ta trọng nể! Kẻ yếu chỉ biết khóc than cho hiện tại, còn kẻ mạnh sẽ đổ máu tranh đấu cho tương lai! Các ngươi là kẻ yếu hay là kẻ mạnh?”
Hết thảy binh sĩ đều bừng bừng nhiệt huyết, tựa hồ sự anh dũng khí thái của tổ tiên ngàn năm trước lại đang rần rật cháy lên trong lồng ngực họ.
Hoàng Đế đáp xuống đầu thành, giọng rền vang như sấm: “Hôm nay ta lại hỏi các ngươi, có dũng khí tử thủ Phản Tuyền không?”
“Có!” Tiếng hô đồng thanh rung chuyển cả núi rừng, chấn động đất trời, vang xa tít tắp.
Phong Bá phóng mắt trông về phía Phản Tuyền, chặc lưỡi than, “Chẳng trách lão ta hùng bá một phương, ta cứ ngỡ lão chỉ giỏi giở âm mưu, nào ngờ dương mưu của lão còn bài bản hơn, mới có mấy câu mà xoay chuyển hoàn toàn cục thế, từ cầm chắc thất bại đổi ngay thành thắng bại khó đoán.”
Vũ Sư chỉ huy một tốp thợ khiêng đống binh khí vừa rèn lại, ưu tư hỏi: “Xi Vưu đâu rồi?”
Phong Bá liếc vào trướng lớn: “Đang ngủ!”
“Ầm ĩ thế này mà vẫn ngủ được à?”
Phong Bá cười, “Nếu huynh ấy muốn ngủ thì dù có đút đầu vào miệng cọp cũng không tỉnh đâu.”
Si đáp: “Khi nãy vừa tỉnh, hỏi “Hoàng Đế đến rồi à?”, ta đáp “Phải”, huynh ấy lại ngủ tiếp.”
“Vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào đây?” Vũ Sư hỏi.
“Nhóm lửa nấu cơm đi, à, thêm nhiều thịt vào nhé, cả gia vị nữa. Mẹ nó chứ, trời cao đất rộng cũng không bằng cơm nóng canh sốt!” Khép lại vạt áo choàng, Phong Bá bắt đầu đi tuần, cũng như mọi ngày hắn vừa đi vừa cười tít mắt chào hỏi mọi người. Bốn huynh đệ Si Mỵ, Võng Lượng đang căng thẳng vì tiếng hô vang từ phía quân Hiên Viên đưa lại, nhưng thấy Xi Vưu vẫn trở mình ngủ tiếp, Phong Bá thì nhơn nhơn cười đùa, họ cũng phá lên cười theo.
Không khí thoải mái lan nhanh chẳng kém gì căng thẳng, các binh sĩ thấy bọn họ vẫn thản nhiên như thường, liền tự động ai vào việc nấy, chẳng mấy chốc lại ngửi thấy mùi thức ăn thơm nức mũi, mọi người vừa cười nói vừa uống bát canh thịt nóng hổi, người nóng bừng lên, áp lực do Hoàng Đế gây ra bất giác tiêu tan đâu hết.
Sau khi đến Phản Tuyền, Hoàng Đế cũng chẳng thay đổi chiến thuật, chỉ lo cố thủ thành trì, bất kể Vũ Sư nửa đêm mưa gió dẫn quân đánh lén hay Phong Bá đột ngột kéo binh tập kích như vũ bão, Hoàng Đế vẫn phòng thủ thật vững, mưa đến đất ngăn, gió về cây cản.
Cuộc chiến này đã kéo dài hơn hai năm, song phương đều kiệt quệ rồi.
Hiên Viên là một quốc gia hoàn chỉnh, lương thảo được cung ứng đầy đủ, binh sĩ lại ở trong thành, có thể cố thủ, còn Thần Nông đã mất nước, lương thảo lúc có lúc không, binh sĩ phải đóng trại giữa đồng hoang, sĩ khí cũng dần dần giảm sút.
Nhưng Xi Vưu chẳng hề lưu tâm chuyện đó, hắn lấy dạ dày của một con yêu thú làm thành một quả cầu, mỗi lúc không phải ra trận, hắn lại cùng cả đám huynh đệ Si Mỵ Võng Lượng chơi đá cầu, quả cầu nặng như một hòn núi nhỏ bị họ đá bay đi bay lại trên không, muốn đá trúng ai thì đá trúng người đó.
Phong Bá vẫn thả sức thích làm gì làm nấy nên tâm tình thoải mái như thường, chẳng hề bị ảnh hưởng, chỉ có Vũ Sư hơi bồn chồn, bèn kéo Phong Bá tới gặp Xi Vưu, hành lễ hỏi: “Tại hạ có một việc không hiểu, xin thỉnh giáo đại nhân.”
Vũ Sư xuất thân từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia. Cũng như Tây Lăng Thị, Xích Thủy Thị là thị tộc từ thời thượng cổ, chỉ xem trọng dòng dõi chứ không để tâm quốc gia, không thuộc về bất cứ quốc gia nào, nhưng lại được tất cả các quốc gia coi trọng, xem như danh gia vọng tộc. Xích Thủy Thị gia phong nghiêm cẩn, giáo dục con cháu rất nghiêm khắc, tuy Vũ Sư đã bị trục xuất khỏi gia tộc, còn bị trừng phạt nặng nề, thành ra xấu xí tật nguyền, nhưng vẫn giữ nề nếp từ nhỏ, lời nói cử chỉ hết sức khiêm tốn lễ độ. Đám huynh đệ của Xi Vưu đa phần lỗ mãng, thoạt đầu thấy rất khó chịu, còn sinh ra mâu thuẫn, phải nhờ Phong Bá đứng ra hòa giải, nhưng sống chung lâu ngày, mọi người lại sinh lòng kính phục vị tướng quân ăn nói lễ độ, hành xử chu đáo, giỏi hô mưa gọi gió, lại giỏi nghề rèn binh khí này.
Xi Vưu vốn cũng là kẻ thô lỗ, nhưng được Viêm Đế rèn cặp mấy trăm năm, tạm xem như thông văn hiểu võ, hắn chiếu theo lễ tiết Thần Nông, cùng Vũ Sư chia nhau ngồi xuống, bây giờ mới lên tiếng: “Mời tiên sinh cứ nói.”
Vũ Sư nói: “Hai quân giao tranh, càng kéo dài càng bất lợi cho chúng ta, hiện giờ sĩ khí đã có phần giảm sút, nếu còn kéo dài, e rằng sẽ đến lúc Hiên Viên ồ ạt tấn công.”
Xi Vưu cười hỏi: “Tiên sinh có thượng sách gì chăng?”
Vũ Sư than: “Thật hổ thẹn, tại hạ vắt óc nghĩ mãi chẳng tìm được kế sách gì. Hoàng Đế quả là tướng tài thiên cổ, hành quân bày trận rất nghiêm mật kỹ càng. Hiện giờ chỉ còn một cách duy nhất là nhân lúc quân tâm chưa tan rã hẳn, phải tìm biện pháp vực dậy sĩ khí, sau đó dốc toàn lực công thành, dù sao Phản Tuyền cũng là cố hương của chúng ta, chắc sẽ nắm được năm phần thắng.”
Phong Bá lên tiếng: “Phản Tuyền dễ thủ khó công, nếu chủ soái đổi lại là kẻ khác, có lẽ chúng ta còn có cơ lợi dụng, nhưng hiện giờ Hoàng Đế đích thân cầm quân, có thể nói là vững như thành đồng, lỡ dốc toàn lực tấn công mà thất bại, bóng đen từ trận thất thủ Phản Tuyền lần trước sẽ tiếp tục ám ảnh quân sĩ, đến chừng đó, áo giáp vàng của Hoàng Đế sẽ trở thành phướn chiêu hồn, bùa đòi mạng của chúng ta đó.”
“Nhưng cứ giằng dai thế này, chúng ta còn thảm hơn. Nếu đánh, may ra còn chút cơ hội, nhược bằng không đánh, có lẽ sẽ bị tiêu diệt toàn quân.”
Phong Bá cười hì hì nhìn Xi Vưu, “Này, ta nói huynh đó! Tuy Hoàng Đế lợi dụng Phản Tuyền nhãn, bày cái gì Thất tinh trận chuyên để đối phó huynh, khiến huynh xông pha mấy lần chưa được, nhưng huynh định bó tay chịu trói thật ư?”
Xi Vưu trả lời qua quýt: “Vậy ta lại dẫn quân công thành.” Nói là làm, hắn lập tức đi điểm binh, tấn công Phản Tuyền thành.
Nửa ngày sau, Xi Vưu hậm hực quay về, mặt nặng như chì, khiến tất cả im re không ai dám nói với hắn một câu, không khí trong doanh trại càng thêm nặng nề bức bối.
Đến tối, tướng sĩ coi quản lương thảo lại đến báo sắp cạn lương, mà lương thảo mới còn chưa đến, hiện giờ buộc phải thắt lưng buộc bụng, nếu mỗi người chỉ ăn lưng lửng dạ, thì may ra còn kéo dài được bảy ngày nữa.
Lương thảo không đủ, e rằng tướng sĩ có anh dũng đến mấy chăng nữa cũng chẳng đánh trận nổi, việc này ngay đến Phong Bá cũng phải tái mặt.
Tám ngày sau, giữa canh khuya.
Binh sĩ Thần Nông tộc đang nhịn đói nằm ngủ, chợt các chiến sĩ đi tuần phát hiện có quân sĩ Hiên Viên xuất hiện phía sau doanh trại của họ, từng tên nối đuôi nhau từ trong rừng đi ra.
Té ra, Hoàng Đế lợi dụng khoảng thời gian hơn hai năm này, ngoài mặt giao chiến với Xi Vưu, bên trong lại ngầm sai người đào một đường hầm, đầu ra chính là ngọn núi mà quân đội Thần Nông vẫn xem như bức bình phong.
Đợi tới khi thời cơ chín muồi, sĩ khí Thần Nông đã tan tác cả, lương thảo cũng cạn kiệt, bấy giờ Hoàng Đế mới phái quân tinh nhuệ đi suốt đêm theo phong đạo vòng ra phía sau doanh trại Thần Nông.
Quân tinh nhuệ đánh lén từ phía sau, đại quân từ Phản Tuyền thành tấn công trực diện.
Tiếng la thảm xé toang màn đêm yên tĩnh.
Quân lính Thần Nông đang đói bụng, lại bị bất ngờ, trở tay không kịp, lập tức thua tơi tả, bỏ chạy tứ tán. Phía trước là Phản Tuyền thành, hàng ngàn hàng vạn binh sĩ Hiên Viên đang xông tới, phía sau là quân tinh nhuệ của Hiên Viên được trang bị kỹ càng, sát khí đằng đằng, bên trái là dòng Tế thủy cuồn cuộn sóng, bọn họ đành men theo cánh phải, chạy vào Phản Tuyền sơn cốc.
Thấy sơn cốc địa thế quanh co, khó mà truy kích, tướng sĩ Thần Nông đều thở vào nhẹ nhõm, nhưng họ đâu có ngờ Hoàng Đế đã nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình Phản Tuyền, sớm đoán được khi bị hai mặt giáp công, Thần Nông tộc chỉ có thể chạy về hướng này, bởi vậy đã tập trung tất cả binh lực của Thần tộc bày trận đợi sẵn.
Vì trận chiến này, Hoàng Đế đã phải thao luyện hơn một năm, bảo đảm mấy trăm tướng sĩ Thần tộc có thể tức tốc vào vị trí, phát động thế công.
Tiếng trống trận vang rền như sấm dậy lên từ hai vách núi, khiến tướng sĩ Thần Nông sợ vỡ mật, tuyệt vọng hoàn toàn.
Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu, từ trên trời đáp xuống: “Xi Vưu, ta cho ngươi một cơ hội để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ, hoặc ngươi lập tức quy hàng, thề trung thành với Hiên Viên, hoặc ngươi lặp tức tự vẫn, bất kể ngươi chọn đường nào, ta cũng sẽ đối xử tốt với tất cả tướng sĩ.”
Hoàng Đế buông ra những câu ly gián lòng người trong tình cảnh này thật hiểm độc vô cùng, nào ngờ Xi Vưu chỉ ngẩng đầu cười hỏi: “Nếu ta không chọn đường nào cả thì sao?”
Hoàng Đế thoạt nhìn đã nhận ra kẻ kia là Phong Bá giả trang, liền biến sắc mặt, Phong Bá nhìn nét mặt Hoàng Đế cũng biết đã bị vạch trần, bèn cởi phăng hồng bào, biến lại nguyên hình, cười nói: “Trong lúc ngươi đuổi theo Xi Vưu giả này, chắc Xi Vưu thật đã tiến vào Phản Tuyền thành rồi.”
Hoàng Đế mặt sạm như tro, năm xưa ông ta bảo Thanh Dương đóng giả làm mình để dụ địch, đến hôm nay Xi Vưu lại lấy chính gậy ông đập lưng ông. Hoàng Đế cứ ngỡ Xi Vưu đã trúng kế mình, nào ngờ mình phải trúng lại kế của hắn.
Trong Phản Tuyền thành đã xảy ra đại biến, trước thế công như vũ bão của Xi Vưu và Vũ Sư, chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Phản Tuyền thành binh mỏng lực yếu liền đổi chủ. Khi ngọn cờ vàng của Hiên Viên tộc bị hạ xuống, thay vào đó là ngọn cờ đỏ phấp phới giữa không trung, cả dải đồng hoang im phăng phắc. Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc đều không thể tin được rằng Phản Thành đã lại bị mất! Phản Thành cũng đã lại quay về!
Hoàng Đế không hổ là Hoàng Đế, chỉ một thoáng đã trấn tĩnh lại ngay. Tuy Xi Vưu đã chỉ huy tướng sĩ Thần tộc và Yêu tộc khống chế Phản Tuyền thành, nhưng đại quân Nhân tộc bị Xi Vưu dùng làm mồi nhử vẫn còn ở trong sơn cốc.
Hoàng Đế vận linh lực để tiếng nói vang đi thật xa: “Xi Vưu, chỉ cần ta hạ lệnh một tiếng, đỉnh núi hai bên sơn cốc này sẽ đổ sụp, mấy vạn tướng sĩ bị ngươi dùng làm mồi nhử đều phải vùi thây tại đây.”
Tiếng nói như sấm rền, xua tan nỗi tuyệt vọng trong lòng tướng sĩ Hiên Viên, đánh tan niềm hân hoan của tướng sĩ Thần Nông.
Xi Vưu cưỡi đại bàng, chớp mắt đã tới trước mặt Hoàng Đế, “Vậy chúng ta quyết một trận sinh tử ngay tại đây đi!”
Tấm áo choàng của Phong Bá bay vụt lên, cả trời vần vũ gió mây, khiến người ta cơ hồ không đứng vững nổi.
Tượng Võng quăng đôi đũa trúc trong tay ra, đũa trúc vừa gặp gió liền dài ra, biến thành một khu rừng trúc san sát, ngăn cuồng phong lại.
Vũ Sư đứng trên đầu thành Phản Tuyền, dựa vào Phản Tuyền thủy linh ngưng tụ trong thành làm thành mưa lớn, mực nước Tế thủy chẳng mấy chốc đã dâng lên, một khi nước dâng cao quá mặt đê, tướng sĩ Hiên Viên ngoài thành sẽ chôn thây dưới đáy nước.
“Ly Chu!” Hoàng Đế thét lớn, mấy ngàn năm sánh vai chiến đấu bên nhau, đôi bên vô cùng ăn ý, ông ta chẳng cần hạ mệnh lệnh gì, tự khắc Ly Chu sẽ hiểu.
Ly Chu đứng ngay lối vào sơn cốc, ngoảnh mặt về phía Tế thủy, hai chân dang ra, biến thành trụ đất, cắm sâu xuống đất, hấp thu thổ linh từ lòng đất, đất vàng nổi lên, nước dâng đến đâu, bờ đê cũng dâng cao theo đến đấy.
Trận chiến giữa hai đại Thần tộc đến giờ mới thật sự mở màn.
Hoàng Đế và Xi Vưu đứng giữa chừng không, trừng trừng nhìn nhau.
Hoàng Đế vung tay phát động thế công, lập tức vách núi hai bên đứt gãy, đá tảng rào rào đổ xuống, Si Mỵ Võng Lượng đã đợi sẵn, dẫn một đám quân sĩ Yêu tộc xông ra, thoắt ẩn thoắt hiện như quỷ mỵ, lần lượt đá văng từng viên đá tảng như đá cầu. Nhờ luyện tập hơn một năm, tất cả đá đều nhắm trúng vào Hiên Viên tộc, chuẩn hơn cả tên bắn.
Nhưng dù vậy, vẫn còn không ít đá tảng rơi xuống, đè chết khá nhiều quân Thần Nông, họ nháo nhào chen lấn xông ra khỏi sơn cốc, liền đụng phải đám binh sĩ Hiên Viên cuống cuồng tràn vào sơn cốc vì sợ nước dâng, đôi bên lập tức lao vào nhau chém giết.
Xi Vưu và Hoàng Đế kịch chiến trên không, bóng đại bàng đen tuyền và Trùng Minh điểu rực rỡ thoắt phân thoắt hợp, Hoàng Đế dùng một ngọn kim thương, Xi Vưu cầm một thanh trường đao, đao thế của Xi Vưu khi mở rộng, lúc thu lại, hóa thành một con mãnh hổ lộng lẫy đủ màu, thương pháp của Hoàng Đế lại nhanh nhẹn dứt khoát, hóa thành một con giao long vàng rực.
Giao long cùng mãnh hổ giao đấu, thoạt đầu khó phân cao thấp, về sau, Hoàng Đế dù sao cũng dựa vào mưu kế mà xưng hùng chứ không phải nổi danh vì võ nghệ, nên thần lực không bì được Xi Vưu, dần dà bị linh lực của Xi Vưu bao phủ, chiêu đòn càng lúc càng chậm, động tác của giao long cũng càng lúc càng chậm theo, mấy lần đã bị mãnh hổ cắn, tuy vẫn vùng vẫy giằng ra được, nhưng thân hình mỗi lúc một nhỏ lại.
Hoàng Đế biết linh lực của mình không bì được Xi Vưu, chỉ có thể tốc chiến tốc thắng. Giao long bèn cố ý để lộ sơ hở, mãnh hổ vừa cắn vào bụng nó, lập tức giao long quẫy đuôi đập thẳng vào mình mãnh hổ, mãnh hổ nhảy lên tránh thoát, giao long thừa cơ quay lại cắn trả, nhưng vừa ngẩng đầu lên, chợt trông thấy từ phía chân trời đằng Tây bắn vọt lên một luồng sáng chói mắt.
Giao long bất giác khựng lại, để lộ sơ hở, liền bị mãnh hổ ngoạm trúng chỗ bảy tấc trên mình.
Giao long đau đớn gầm lên, ngửa đầu ra sau, nhưng cặp mắt vẫn đau đáu nhìn về hướng Tây, từ khóe mắt, hai hàng linh lệ trong veo ứa ra.
Xi Vưu cũng cảm thấy hướng Tây có vẻ khác thường, nhìn phản ứng của Hoàng Đế, hắn càng thêm kinh ngạc, vội ngoái đầu nhìn về hướng Tây, thấy luồng sáng chói lọi kia đang bao lấy một con chim phượng trắng bạc chao liệng cuối trời Tây, ánh sáng từ từ nhạt đi, dường như cánh phượng kia cũng mòn mỏi chết dần.
Xi Vưu biết, nhất định Hiên Viên quốc đã xảy ra chuyện, nhưng còn chưa hiểu rốt cuộc là chuyện gì, chợt nghe thấy bên dưới có kẻ rú lên thê thiết: “Vương hậu qua đời rồi!”
Xi Vưu sững người, mẹ A Hành chết rồi ư?
Hoàng Đế vẫn giữ vẻ thản nhiên, vờ như đang vốc toàn lực chiến đấu với Xi Vưu, nhưng trong lòng lại cuộn trào bão tố.
Suốt mấy ngàn năm, trải vô vàn trận đánh, mỗi lần rời vào tình huống nguy cấp nhất, ngoảnh đầu lại, ông đều trông thấy bóng giáp bạc kia, lần nào như lần ấy, đều chuyển nguy thành an. Nhưng lần này ngoảnh lại, ông chẳng hề thấy bóng giáp bạc của nàng, thay vào đó, lại trông thấy cái chết của nàng.
Đáng lẽ ông nên thấy nhẹ nhõm mới phải, chẳng phải ông vẫn muốn thoát khỏi nàng từ lâu đó sao?
Từ sau khi Hiên Viên lập quốc, cùng với sự ổn định của Hiên Viên quốc, ông càng ngày càng ghét nghe đám khai quốc công thần hở ra là nói: “Chỉ sợ vương hậu không đồng ý.”; ghét nghe người các tộc xì xào sau lưng rằng ông phải dựa vào một người đàn bà mới đạt thành đại nghiệp; ghét phải nhẫn nhịn tính tình cương liệt không khoan nhượng của nàng, sự thông tuệ sắc sảo của nàng… Ông cứ ngỡ rằng mình chẳng hề có tình cảm với nàng, rằng mình cưới nàng chỉ để hoàn thành hùng tâm tráng chí, vì nể tình nàng tương trợ mà ban Triêu Vân điện cho nàng. Nhưng, trong khoảnh khắc chứng kiến cánh phượng kia lìa trần, ông chợt nhận ra, từ nay về sau, dù ông có ngoái lại bao nhiêu lần chăng nữa, cũng chẳng còn bóng giáp bạc chạy đến bên cạnh, sát cánh chiến đấu cùng ông, đồng sinh cộng tử. Giao long không kiềm được mà rơi lệ, từng giọt lệ vàng óng do linh lực kết thành, thoắt đến thoắt đi, không tâm không tích, ngay bản thân ông cũng chẳng hiểu đó là vì lẽ gì.
Ông đã sớm biết nàng chẳng còn được bao lâu, đáng lẽ ông phải lấy nhẹ nhõm…
Linh lực của Hoàng Đế và Xi Vưu giao kích khiến bầu trời vần vũ mây đen, sấm sét ùng oàng, mưa to gió lớn xối xả trút xuống. Mãnh hổ ngoạm chặt chỗ bảy tấc trên mình giao long, bất kể nó vùng vẫy quằn quại ra sao cũng không nhả. Thân mình giao long từ từ thu nhỏ lại, Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu thấy vậy liền tái mặt, thân hình lảo đảo muốn ngả.
Chỉ cần thêm một đòn nữa, Hoàng Đế sẽ phải bỏ mạng. Chợt trước mắt Xi Vưu hiện lên gương mặt bi ai cùng cực của A Hành, lòng hắng bỗng nhói lên, đao thế lập tức biến đổi, mãnh hổ nhả giao long ra, giao long liền cuống cuồng bỏ chạy, nào ngờ mãnh hổ há to cái miệng đỏ lòm như chậu máu, cắn một nhát, thân mình giao long đứt làm đôi.
Ngọn kim thương trong tay Hoàng Đế gãy đôi, Hoàng Đế phun ra mấy búng máu, rớt khỏi lưng Trùng Minh điểu.
Xi Vưu mỗi tay cầm một đoạn kim thương, vung tay ném ra, hai ngọn đoạn thương cắm phập vào ngọn núi, hóa thành hai đỉnh núi hình dạng như ngọn nến, đối diện với Phản Tuyền thành, dáng nghiêng nghiêng như tế bái.
“Du Võng, lễ vật ta dâng lên ngươi nhân ngày giỗ đây!” Xi Vưu cao giọng thét lớn.
Trong tiếng thét của Xi Vưu, sĩ khí quân Thần Nông chợt tăng vọt, trong khi quân Hiên Viên bại trận tan tác như núi đổ. Phong Bá và Vũ Sư xuất lĩnh binh sĩ Thần tộc tấn công hai bên trái phải, Si Mỵ Võng Lượng dẫn binh sĩ Thần tộc ùa theo truy kích tiêu diệt ngót năm vạn quân Hiên Viên tộc. Ly Chu và Tượng Võng dốc sức cố ngăn sự truy sát của Phong Bá và Vũ Sư, nhưng Tế thủy cắt ngang đường, không cách nào dẫn quân lội qua song chạy về biên giới Hiên Viên được, mắt thấy toàn quân sắp bị tận diệt đến nơi, chợt một con thanh long bơi lại, kê đầu lên một bờ Tế thủy, đuôi vắt sang tận bờ bên kia, sống lưng rộng rãi như một cây cầu xanh ngắt, thanh long bảo Tượng Võng: “Bước trên người ta mà qua sông.”
Té ra là Ứng Long mất tích bấy lâu, Tượng Võng chẳng kịp cám ơn, vội cõng Hoàng Đế bị trọng thương đang hôn mê, dẫn các binh sĩ còn lại qua sông, Ly Chu cùng các chiến sĩ còn lại đoạn hậu.
Tuy Vũ Sư có tài hô mưa không ai bì nổi nhưng trước mặt loài rồng được xưng là vương của Thủy tộc, y cũng đành chịu bó tay. Bất kể y dấy lên sóng to gió mạnh đến đâu, Ứng Long đều có cách ứng phó.
Nhờ Ứng Long bất ngờ ra tay tiếp cứu nên Hiên Viên tộc mới bảo toàn được hơn một vạn chiến sĩ. Trong trận chiến Phản Tuyền lần này, có thể nói Hiên Viên tộc đã thảm hại.
Trong Phản Tuyền thành râm ran tiếng cười tiếng nói, mọi người đều uống tràn lan, mừng thắng lợi.
Chỉ riêng Xi Vưu một mình đứng trên đầu thành, dõi mắt trông về cuối trời Tây.
Vũ Sư và Phong Bá dìu nhau loạng choạng bước lên thành lâu, Phong Bá hỏi Xi Vưu: “Huynh như vậy là sao hả? Kẻ nào không biết còn tưởng là chúng ta thua nữa đó.”
Vũ Sư cũng đã say đến bảy tám phần, lè nhè hỏi: “Đến giờ ta vẫn chưa hiểu chuyện này rốt cuộc là sao nữa, rõ ràng chúng ta đã lâm vào đường cùng, nói thực, ta đã nghĩ lần này thua chắc, vậy mà giờ lại có thể ngồi trong Phản Tuyền thành uống rượu.”
Xi Vưu đáp: “Vừa đúng lúc, để ta dẫn ngươi đi gặp Hình Thiên tướng quân!”
Một đại hán cao chừng một trượng bước ra, Xi Vưu giới thiệu: “Đây chính là đại tướng quân phụ trách lương thảo của chúng ta, vì tướng quân luôn ở hậu phương nên các ngươi không có cơ hội gặp mặt.”
Hình Thiên hỏi Xi Vưu: “Ta thật không sao chịu nổi ngươi nữa, may mà lần này ta đích thân áp tải lương thảo, giờ gặp nhau ở đây, ta phải hỏi cho ra lẽ mới được, rốt cuộc ngươi định làm gì vậy? Mọi người đều biết chiến sự ở Phản Tuyền liên quan tới sinh tử của Thần Nông, chúng ta ở hậu phương thà nhịn ăn nhịn uống cũng phải gom đủ lương thảo, vậy mà ngươi khi thì bảo ta đưa ít đi, lúc lại bảo ta đưa chậm lại, lần này rõ ràng ta đã nghĩ ra cách, mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà ngươi lại bảo ta tạm thời giấu cả đi.”
Vũ Sư kinh ngạc hỏi thất thanh: “Chúng ta có lương thảo ư?”
Hình Thiên hừ mũi: “Tuy chúng ta đã mất nước nhưng còn dân, còn đất, chỉ còn người Hiên Viên không tới quấy phá, thứ gì nên trồng cây thì trồng cây, thứ gì nên thu hoạch thì thu hoạch, vẫn tích trữ được chút lương thảo. Lần này biết không thể thất bại trong chiến dịch Phản Tuyền nên mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa cơm, để dành lương thảo đưa ra chiến trường. Ta còn đi cầu khẩn Đồ Sơn Thị, gia tộc giàu có nhất trong Tứ thế gia, Viêm Đế từng có ơn cứu mạng chủ mẫu của họ, nên Đồ Sơn Thị tặng cho chúng ta một ít lương thảo, xem như báo đáp. Ngày sau thì không dám nói chắc, nhưng lúc này, ta không thể để binh sĩ đói được.”
Vũ Sư và Phong Bá đều trợn tròn mắt nhìn Xi Vưu, Vũ Sư ngỡ ngàng hỏi: “Sao huynh không cho các chiến sĩ ăn no?”
Hình Thiên phẫn nộ: “Nếu chẳng phải năm xưa Viêm Đế đinh ninh dặn ta nghe lời ngươi, ta đã tìm tới hỏi tội ngươi rồi.”
Xi Vưu biết tình tình Hình Thiên thẳng thắng bộc trực, bèn nhẫn nại giải thích: “Xưa nay Hoàng Đế cầm quân, không nổi tiếng vì dũng mãnh, mà vang danh nhờ mưu lược. Ông ta rất quý trọng binh lực, luôn muốn sắp sẵn mọi chuyện, đánh một đòn dứt điểm, trận Phản Tuyền lần trước chính là một ví dụ. Lần này nếu Hoàng Đế lấy cứng chọi cứng với chúng ta, thì cũng chỉ năm ăn năm thua, đôi bên lưỡng bại câu thương, Cao Tân sẽ được hưởng lợi, Hoàng Đế không đời nào chịu như vậy. Thế nên, ông ta lợi dụng việc quân đội Hiên Viên được cung ứng đầy đủ, cứ giằng dai kéo dài để tiêu hao sinh lực chúng ta, đợi chúng ta hoàn toàn suy kiệt, ông ta chỉ cần cất tay là dẹp tan, đó là kế sách thứ nhất. Những viên đại tướng bình thường trù tính được đến bậc này hẳn đã vừa ý rồi, nhưng Hoàng Đế lại rất cẩn thận, còn phái binh sĩ đào đường hầm để trước sau giáp kích, kẹp chúng ta vào giữa, đó là kế sách thứ hai. Đến đây, có thể coi như cầm chắc thắng lợi nhưng Hoàng Đế vẫn chưa vừa lòng, lại điều động Thần tộc bày trận thế tại Phản Tuyền sơn cốc, quyết không để xảy ra điều gì sơ sót.”
Vũ Sư tán thưởng: “Quả là lợi hại, hết kế này đến kế khác đan cài vào nhau!”
Phong Bá gật đầu: “Kế sách thứ nhất là quan trọng nhất, có điều Xi Vưu còn lợi hại hơn, rõ ràng Hình Thiên đã mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà Xi Vưu vẫn hạ lênh giấu lương đi, để Hoàng Đế ngỡ rằng lương thảo của chúng ta đã cạn kiệt, bấy giờ mới chịu dốc toàn lực tấn công ta. Bằng không chúng ta đâu thể dễ dàng tiến vào Phản Tuyền thành như vậy?”
Xi Vưu nói: “Không thể nói là ta giỏi cầm quân hơn Hoàng Đế được, ta chỉ có ưu thế là nghiên cứu được tất cả các trận chiến của ông ta suốt mấy ngàn năm nay, còn ông ta lại chỉ có thể quan sát những trận chiến của ta trong thời gian này mà thôi, nên ta hiểu về ông ta hơn ông ta hiểu về ta nhiều. Bởi vậy, ta biết ông ta sẽ không tấn công trực diện một cách tùy tiện như thế, bèn nghĩ cách phối hợp với ông ta, lấy gậy ông đập lưng ông. Thực ra, trận chiến này, Hoàng Đế đã thua chính bản thân mình.”
Vũ Sư và Phong Bá cùng bật cười: “Huynh cần gì phải khiêm tốn? Đây cũng là nhờ huynh khéo léo ứng phó được tất cả những kế sách của ông ta. Ít ra chúng ta cũng không ai biết được huynh bày ra trò đá cầu là để thao luyện binh sĩ, nếu không có bọn Si Mỵ Võng Lượng cùng các huynh đệ Yêu tộc giỏi đá cầu, chẳng hiểu sẽ có bao nhiêu chiến sĩ phe ta phải bỏ mạng nữa.”
Chỉ mình Hình Thiên cố chấp lắc đầu: “Xi Vưu, nếu Viêm Đế còn sống, nhất định không tán thành cách làm này của ngươi đâu. Để dụ Hoàng Đế vào tròng, ngươi chẳng nề để tướng sĩ nhịn đói nhịn khát, nếu những binh sĩ hy sinh kia được ăn thêm chút thịt thà, biết đâu họ lại có sức chiến đấu, không đến nỗi phải chết. Ngươi còn chính tay đẩy họ vào trận thế của Hoàng Đế để làm mồi nhử, ngươi có biết bao nhiêu binh sĩ đã bị đá đè chết không? Mấy ngàn người đó!”
Thấy Xi Vưu lặng thinh, Hình Thiên lại nói: “Để giành thắng lợi, ngươi không tiếc bất cứ thủ đoạn nào cả, lần này ngươi hy sinh tướng sĩ, lần sau ngươi định hy sinh ai đây?”
Thấy Phong Bá toan nói gì đó, Xi Vưu liền giơ tay ngăn lại. Hắn bình thản đối diện với Hình Thiên: “Ngươi từng theo hầu sư phụ, hẳn biết rõ lai lịch xuất thân của ta. Trong mắt ta không có đúng sai đạo nghĩa, cũng chẳng có lễ nghĩa liêm sỉ, chỉ biết giở mọi thủ đoạn để sinh tồn mà thôi. Nếu bất mãn, ngươi cứ việc ra đi, nhưng nếu ngươi muốn ở lại thì phải tuyệt đối trung thành, bằng không…” Xi Vưu cười lạnh lẽo, “Lang vương thường cắn chết con sói phản bội rồi quẳng cho bấy sói xé xác ăn thịt, có điều hình phạt của nó vẫn chưa hung tàn bằng ta đâu.”
Thấy Hình Thiên phẫn nộ trợn trừng hai mắt, Vũ Sư ngỡ hắn định tấn công Xi Vưu, nào ngờ hắn trừng trừng nhìn Xi Vưu một hồi rồi quay phắt đi, “Ta chỉ trung thành với Viêm Đế thôi.”
Phong Bá và Vũ Sư định nói thêm gì đó, nhưng Xi Vưu đã xua tay, “Ta muốn ở lại một mình.” Hai người đành lui xuống.
Xi Vưu đứng trên đầu thành, dõi mắt về phía trời Tây.
Mẹ A Hành qua đời rồi!
Đến giờ hắn vẫn nhớ như in nỗi đau chết nửa cõi lòng lúc Viêm Đế qua đời, huống chi A Hành vốn gắn bó với Luy Tổ, nhất định sẽ còn đau đớn hơn.
Hắn chỉ hận không thể bay ngay đến Triêu Vân phong, nhưng đến rồi hắn phải nói gì đây? Ta đánh bại cha nàng, giết chết mấy vạn tộc nhân của nàng ư? Dùng đôi tay dính đầy máu tươi này ôm lấy nàng an ủi ư?
Tiêu Dao đậu xuống đầu thành, nghiêng đầu nhìn hắn như đang hỏi: Ngươi làm gì thế?
Xi Vưu cười nói: “Ta đang nhớ A Hành.” Nụ cười bất lực vô chừng, khác hẳn vẻ lãnh khốc bên ngoài.
Tiêu Dao lườm hắn rồi kêu lên một tiếng, khẽ vỗ cánh như thể muốn bay đi.
Xi Vưu liền nhảy lên lưng nó, “Nào thì đi!” Bất kể ra sao cũng phải tới trông thấy nàng, mới có thể yên tâm.
Đã tảng tảng sáng, nhưng trong Triêu Vân điện vẫn vắng lặng như tờ, tưởng chừng nghe được cả tiếng lá rơi, hồ như tất cả mọi người đều đang say ngủ.
Xi Vưu tìm từ tiền điện đến sương điện cũng chẳng thấy A Hành, đang lo lắng chợt thấy một bóng người chớp lên, hắn vội vàng lẩn đi.
“Xi Vưu.” Vân Tang gọi giật hắn lại, “A Hành đang ở trên đỉnh núi.”
Xi Vưu đang định đi, chợt nghe Vân Tang hỏi: “Nghe nói ngươi hiện giờ thiếu thốn lương thảo, sắp không duy trì được nữa ư?” Tốc độ của Tiêu Dao quá nhanh, lại đến trước cả khi tin thắng bại truyền về Hiên Viên thành.
Xi Vưu ngoảnh lại đáp: “Chiến dịch đã kết thúc, Hoàng Đế bị trọng thương, Thần Nông thu lại Phản Tuyền rồi.”
Sắc trời vẫn còn lờ mờ, Vân Tang lại đứng quay lưng về phía ánh sáng nên không trông rõ được nét mặt, hồi lâu, nàng mới hỏi: “Tiếp sau đây, ngươi định thế nào?”
“Đợi thu hồi được toàn bộ lãnh thổ Thần Nông, buộc Hoàng Đế đầu hàng, ta cũng hoàn thành lời hứa với hai đời Viêm Đế, trả hết ơn nghĩa, chừng đó ta sẽ giao lại binh quyền, chuyện về sau là của Thần Nông vương tộc các người.”
“Vậy còn ngươi?”
“Ta sẽ dắt A Hành vĩnh viễn rời đi.”
Vân Tang trỏ con đường mòn tít tắp sâu trong rừng dâu, “Ngươi men theo con đường này sẽ gặp A Hành, đêm qua mẫu hậu vừa qua đời, hiện giờ muội ấy đang vô cùng thương tâm, ngươi đừng khiến muội ấy bị kích động, cũng đừng nhắc tới chiến dịch.”
“Đa tạ”
Xi Vưu men theo con đường mòn đầy cỏ dại, thẳng lên tận đỉnh núi. A Hành đang ngồi bó gối trên sườn núi. Nghe tiếng bước chân, nàng liền ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu, nàng cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ hơi nhích người ngồi lùi vào trong một chút. Xi Vưu bèn ngồi xuống sát bên nàng.
Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mây tía lững lờ tựa một dải lụa, rực rỡ mỏng tan như khói, vầng dương vẫn chưa ló dạng.
Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành, thấy gương mặt nàng vừa tái nhợt vừa gầy vò, trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, dường như trông rõ mồn một mạch máu xanh ngắt dưới làn da, hắn chợt xót xa khôn xiết, liền quàng tay ôm lấy nàng.
A Hành tựa đầu vào vai hắn, nước mắt lã chã: “Xi Vưu, từ nay về sau ta chỉ còn một thân một mình thôi, ta không còn mẹ, cũng không còn ca ca nữa.”
Xi Vưu an ủi: “Thanh Dương còn đó, sao nàng lại bảo chỉ còn một thân một mình?”
Nỗi bi ai trong lòng quặn lên, A Hành khóc nức: “Đại ca đã chết lâu rồi, trong trận Phản Tuyền lần trước, chính chàng đã lầm lẫn lỡ tay đánh chết Đại ca. Ta vốn đã sắp đặt mọi chuyện, quyết từ bỏ tất cả để ra đi cùng chàng, làm Tây Lăng Hành, không làm Hiên Viên Bạt nữa, Đại ca và Thiếu Hạo đều hứa sẽ giúp ta, Tứ ca cũng ủng hộ hai ta. Nhưng sau khi Đại ca qua đời, mẫu hậu và Tứ ca không còn chỗ dựa, ta không thể bỏ thân phận Cao Tân vương phi được nữa. Vì bảo vệ cho mẫu hậu và Tứ ca, ta buộc phải mượn sức Thiếu Hạo, để Thanh Dương tiếp tục “sống.” Tứ ca cũng đem lòng hận chàng, cấm ta và chàng ở bên nhau…”
Qua những lời nghẹn ngào nức nở ngắt quãng của A Hành, Xi Vưu mới hiểu ra đầu đuôi mọi chuyện, thì ra, hạnh phúc của hắn đã bị hắn chính tay đánh mất. Trong lúc hắn hôn mê ở Bắc Minh, A Hành vừa phải gánh nỗi đau tang tóc, vừa phải lo lắng bảo hộ cho mẫu hậu và Tứ ca. Nỗi xót xa vô hạn trào dâng trong lòng, chợt một ý nghĩ lóe lên, nếu A Hành không hề thay lòng, chỉ vì bảo vệ mẹ với Tứ ca mới cùng Thiếu Hạo…
“Vậy Tiểu Yêu là… là… con gái ta ư?” Xi Vưu bỗng cảm thấy tim đập thình thịch, ngay cả lúc giao đấu sinh tử cùng Hoàng Đế, hắn cũng không căng thẳng và sợ hãi đến vậy.
A Hành đánh hắn mấy cái, khóc lóc hỏi ngược lại: “Vậy chàng tưởng nó là con ai? Tên nó là Tiểu Yêu, ẩn ý nhắc tới hoa đào, khi ấy chàng sống chết không rõ, bị kẻ thù săn lùng khắp đại hoang, ta còn có thể làm sao đây?”
Xi Vưu vừa mừng rỡ lại vừa buồn bã, hắn có con gái, cuối cùng hắn cũng có con gái thật rồi! Nhưng hắn chưa ngày nào làm tròn trách nhiệm người cha, ngược lại còn vì sát nghiệp của mình, hại con gái từ khi sinh ra đã rơi vào nguy hiểm. Hắn dịu dàng ôm lấy A Hành, thì thầm bên tai: “Xin lỗi nàng, cho ta xin lỗi.”
A Hành phải gánh vác trọng trách, xưa nay vẫn gắn nén bi thương vào lòng. Đại ca chết, không dám khóc, sợ mẹ và Tứ ca đau lòng; Tứ ca chết, không dám chết, sợ mẹ và Tứ tẩu thêm đau lòng; giờ đây, cuối cùng nàng cũng vứt bỏ mọi cố kỵ, mặc cho đau thương tràn ra như nước vỡ bờ, vùi đầu vào vai Xi Vưu khóc thảm thiết.
Xi Vưu cũng chẳng khuyên giải, chỉ ôm chặt lấy nàng, khẽ vỗ vỗ lưng nàng, như thể đang an ủi một đứa bé.
A Hành vừa khóc vừa nói: “Từ nhỏ đến lớn, ta luôn thích ra ngoài chơi, chuyện gì cũng dám làm, bởi ta biết, dù xảy ra chuyện gì, chỉ cần chạy về Triêu Vân điện, sẽ có mẹ và các ca ca ở đó. Nhưng tới khi phát hiện ra gia đình là thứ quý giá nhất, thì đã chẳng còn gì nữa cả. Đại ca đi rồi, ta còn mẹ và Tứ ca, Tứ ca đi rồi, ta chỉ còn mẹ, chỉ cần mẹ vẫn còn sống thì ta vẫn còn gia đình. Hiện giờ mẹ cũng đã đi rồi, ta đã chẳng còn gia đình nữa…”
Xi Vưu cúi đầu hôn lên tóc mai nàng, “Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”
A Hành nước mắt rưng rưng, cảnh tượng lúc Luy Tổ lâm chung lại hiện ra trước mắt.
Mẹ nắm lấy tay nàng dặn dò: “Hành nhi, tuy ta mất đi, nhưng đổi lại, con có thể được tự do. Nếu con thật sự yêu Xi Vưu, thì đi theo hắn đi.” Nàng kinh ngạc nhìn mẹ, ấp úng mãi không nói nên lời. Mẹ nàng cười yếu ớt: “Đồ ngốc ạ, con tưởng đến giờ ta vẫn không nhận ra tâm sự của con ư? Chỉ cần Xi Vưu có thể cho con một gia đình, chăm sóc tốt cho con, thì nó là con rể của ta. Hiện giờ, điều duy nhất ta còn chưa yên lòng, là con đấy!”
Nghe Xi Vưu miêu tả, A Hành tựa hồ trông thấy căn nhà nhỏ thấp thoáng giữa bóng hoa đào, khu vườn rau cạnh nhà, từng ngọn non loăn xoăn xanh mướt từ giàn mướp rủ xuống, giếng đá xanh trước nhà, cái gầu nằm lăn lóc bên miệng giếng, hoa tường vi hồng thắm nở đầy quanh giếng, từng chùm từng cụm, đẹp như ráng chiều…
Dường như mẹ cũng trông thấy căn nhà mới của nàng, đang đứng trước nhà hân hoan mỉm cười.
Mẹ ơi, con có thể tự do đi cùng Xi Vưu thật ư?
Mẹ gật gật đầu với nàng, rồi bóng xa dần, lẫn vào giữa bong hoa đào, vẻ mặt thanh thản, chẳng còn gì vướng bận.
A Hành ngẩng đầu nhìn Xi Vưu, nước mắt chan hòa, chợt khóe môi nàng lại nở nụ cười rạng rỡ, vui mừng nói: “Mẹ nói kể từ giờ ta đã tự do rồi, mẹ bảo mẹ bằng lòng nhận chàng làm rể.”
Xi Vưu sững ra, như không dám tin, một thoáng sau, mới lộ vẻ mừng rỡ như điên cuồng, lắp bắp hỏi: “Mẹ nàng, mẹ nàng… thật… thật…”
A Hành gật đầu.
Xi Vưu xưa nay vẫn cho rằng mình không thể được người thân của A Hành chấp thuận, nên luôn ngang ngược tuyên bố không để tâm, ngờ đâu được người thân thừa nhận và chúc phúc lại có thể làm người ta yên lòng, khiến niềm hạnh phúc càng tăng lên gấp bội. Xi Vưu mừng đến nỗi nói không nên lời, chỉ biết ngẩn ra nhìn A Hành, cười ngây ngô.
Chân trời đằng đông chợt bừng lên, A Hành liền ngoảnh lại nhìn, khẽ lẩm bẩm: “Chàng xem, mặt trời mọc kìa, một ngày mới lại đến rồi.”
Vầng mặt trời đỏ ối như ngọn lửa cháy rực nhô lên khỏi bể mây cuồn cuộn, rọi sáng cả đất trời, khiến vạn vật cũng thành ra rạng rỡ.
Xi Vưu ôm chặt lấy A Hành: “Về sau, ngày ngày chúng ta sẽ cùng nhau ngắm mặt trời mọc nhé?”
A Hành nhoẻn cười, gật đầu. Chẳng rõ nhờ ánh nắng của mặt trời, hay vì hơi ấm của đối phương, cả hai đều thấy thân mình nóng bừng lên.
Nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của A Hành, Xi Vưu máy môi toan nói với nàng: chiến dịch đã kết thúc, nhưng lời ra đến miệng lại không thốt lên nổi. Lúc này đây, hắn chỉ muốn ôm lấy nàng, yên lặng ngắm nhìn vầng dương chiếu rọi khắp nơi.
Ráng đỏ như lửa phủ ngập chân trời, đỗ quyên đỏ như lửa nở đầy sườn núi, hai người yên lặng ngồi trên đỉnh núi, tựa vào nhau, xung quanh là nắng mai tực khói, là hoa dại rực rỡ, thân mình cả hai tựa hồ đã ngưng kết lại thành đá núi, chỉ khi gió sớm thổi qua, mới thấy tà áo nhẹ bay bay.
Xi Vưu khẽ hỏi: “Tây Lăng Hành, sau này nàng định làm gì?”
Tây Lăng Hành, cái tên tượng trưng cho hạnh phúc và tự do ấy, đã bao lâu rổi chưa xuất hiện trong đời nàng? A Hành mơ màng như đang nằm mộng, hạ giọng thì thầm, “Ta muốn ngày ngày đều được ở bên chàng, nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, chứng kiến bọn chúng dựng vợ gả chồng, rồi cùng chàng hạnh phúc lìa khỏi thế gian này.”
Xi Vưu cười, “Nguyện vọng quá đơn giản, ta nhất định sẽ giúp nàng thực hiện!”
“Thật không?”
“Thật.”
Chợt nghe tiếng Chu Du từ rừng dâu gọi vóng lên: “Vương cơ, A Hành!”
A Hành đứng dậy, nhưng Xi Vưu vẫn nắm lấy tay nàng, quyến luyến chẳng nỡ rời. A Hành từ từ lùi lại, bàn tay cũng từ từ tuột khỏi tay hắn. Nàng dặn: “Ta phải lo liệu tang lễ cho mẹ, chàng về trước đi. Giờ này ngày mai, chàng sẽ nhận được quà ta tặng, coi như… ta đền cho chàng vì bấy nhiêu năm nay lỡ hẹn.”
Chiều hôm đó, tin tức về trận Phản Tuyền truyền đến Cao Tân, các đại thần lại được dịp đua nhau tán tụng Thiếu Hạo anh minh cơ trí, không phái binh tham chiến, bằng không đã bị vạ lây với Hoàng Đế.
Đối mặt với lời xưng tụng của quần hùng, Thiếu Hạo chỉ lặng yên không nói.
Đám đại thần thấy vậy cũng chẳng dám dông dài nữa, Thiếu Hạo bây giờ đã không còn là kẻ ôn hòa khiêm tốn, lấy lễ đối đãi với bề tôi như trước, y luôn lạnh lùng nghiêm khắc, trầm mặc kiệm lời, vui giận khó lường, thủ đoạn tàn nhẫn, quần thần mỗi lần bắt gặp ánh mắt y đều run lên sợ hãi.
Thiếu Hạo đang định cho mọi người lui ra, bỗng một tên nội thị hồng hộc chạy vào đại điện, giơ cao một phong thư trắng toát.
Thiếu Hạo khẽ phất tay, phong thư liền bay thẳng tới tay y. Giở ra đọc xong, sắc mặt y chợt trầm xuống, y trân trân nhìn phong thư, hồi lâu chẳng nói chẳng rằng.
Quý Ly xưa nay chưa hề thấy Thiếu Hạo như vậy, đánh liều hỏi: “Bệ hạ có gì căn dặn chăng?”
Thiếu Hạo đưa phong thư cho y, Quý Ly thoạt nhìn đã biến sắc mặt, là giấy tự từ hôn của Hiên Viên Bạt, nàng tuyên bố hủy bỏ hôn nhân với Thiếu Hạo, từ nay trở đi, đôi bên tự do dựng vợ gả chồng, không liên quan đến nhau nữa.
Thiếu Hạo bình thản nói: “Chuyện này có lẽ thiên hạ đều biết cả rồi, ngươi đưa cho bọn họ đọc đi, đọc xong thử trình bày ý kiến xem.”
Mấy vị đại thần xem xong, lòng vô cùng căm phẫn, nhưng không sao dò đoán được thái độ của Thiếu Hạo, nên chẳng ai dám ra lời. Quý Ly đành lên tiếng: “Tân bệ hạ, Cao Tân lập quốc mấy vạn năm nay, chưa từng nghe nói có chuyện như vậy bao giờ, chúng thần cũng không biết nên làm sao mới phải.”
Đám triều thần lao xao gật đầu, xưa nay chỉ nghe nói đế vương hắt hủi phi tử, chưa từng thấy phi tử tự động ra đi bao giờ.
Đột nhiên, một kẻ buông miệng hỏi: “Đây là ý của Hoàng Đế sao? Có phải đằng sau có âm mưu gì không?”
Thiếu Hạo đáp: “Văn thư này mới được ban bố sáng nay thôi, lúc này dù Hoàng Đế còn sống, cũng đang trên đường trốn chạy từ Phản Tuyền, không thể phát ra ý chỉ này được, trên này chỉ có dấu ấn của Vương hậu, không có dấu của Hoàng Đế, hẳn là ý riêng của Hiên Viên vương cơ thôi.”
Triều thần vội tâu: “Vậy thì không tính.”
Thiếu Hạo phán: “Các ngươi lui cả xuống, chuyện này cứ như vậy đi!” Nói rồi, y đứng dậy đi thẳng.
Cả đám triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đều lúng túng như gà mắc tóc. Cứ như vậy đi! Là như thế nào đây? Thiếu Hạo xưa nay nói năng rất rõ ràng rành mạch, đây là lần đầu tiên bọn họ nhận được một mệnh lệnh mơ hồ thế này, thật không biết phải chấp hành ra sao nữa.
Thiếu Hạo không quay về Thừa Ân cung mà đi thẳng tới Thừa Hoa cung – phủ đệ của y thời còn là vương tử.
Đẩy cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn y như cũ.
Y còn nhớ, đêm tân hôn mình đã vờ say, lảo đảo đẩy cửa phòng ra. Bây giờ A Hành ngẩng phắt đầu lên, chăm chú nhìn y, tựa hồ nhìn thấu hết thảy tâm tư y.
Chiếc sập kê sát cửa sổ, ngay cạnh án thư, mỗi tối, khi y ngồi trước án thư xử lý công văn, A Hành thường nằm trên sập đọc sách thuốc.
Cửa sổ trông thẳng ra vườn hoa, hoa cỏ trong vườn đều do nàng tự tay trồng, nàng vừa nghiên cứu Thần Nông Bản Thảo Kinh, vừa mê mải thực hành, trồng ra đủ loại kỳ hoa dị thảo, nổi danh khắp Cao Tân thần tộc, ngay cả phụ vương cũng phải phái cung nhân tới xin giống hoa cỏ về.
A Hành tâm tư tinh tế, biết y thính mùi nên hằng ngày đều hái hoa tươi đặt lên án thư, khiến y luôn được dịp bất ngờ .
Hương rượu thoang thoảng trong gió đêm đưa lại, là túy hải đường do A Hành trồng, chỉ chuyên tưới bằng rượu, không thể tưới bằng nước, đóa hoa lớn mà trắng muốt, khiến người ta vừa ngửi đã say, nàng từng đùa rằng, “Đây là bậc quân tử say trong các loài hoa, có thể đặt tên là Thiếu Hạo hoa.”
Thiếu Hạo đứng dậy, ra vườn ngắt mấy cành túy hải đường cắm vào bình ngọc trên án thư, lập tức cả phòng sực nức hương thơm, khiến người ta ngất ngây chỉ muốn say.
Y ngả người nằm xuống sập, rút trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng thủy ngọc, trong hộp đặt một ngón tay út.
Hôm A Hành không mượn được binh bèn chặt ngón tay bỏ đi, y thực sự không ngờ Xương Ý và Xương Phó lại lần lượt qua đời, từ đó trở đi, A Hành cũng chẳng trở về Ngũ Thần sơn nữa, sau này, càng không thể trở về.
Thiếu Hạo mê mệt thiếp đi giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu.
Ánh nắng chói chang, cỏ xanh mơn mởn, hoa nở rực rỡ. Thanh Dương, A Hành, Xương Ý đều có mặt, hệt như hôm Xương Ý thành hôn, tất cả túm tụm cười cười nói nói. Thiếu Hạo thấy vui vẻ vô cùng, nhưng trong lòng lại thấp thoáng một nỗi đau xót khó gọi thành tên, tựa hồ biết ngày vui ngắn chẳng tày gang vậy.
Y đem ra hết vò rượu này đến vò rượu khác do mình tự cất, còn luôn miệng giục họ uống, như sợ chậm trễ thì họ sẽ không uống được.
Thanh Dương cười bảo Xương Ý: “Tên này đổi tính rồi, trước đây muốn uống hớp rượu ngon của hắn phải nài nỉ năm lần bảy lượt mới được đấy.”
Thiếu Hạo rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương vừa nâng chén lên, chợt thấy Vân Trạch đứng dưới gốc phượng hoàng cười gọi: “Đại ca!”
Thanh Dương lập tức đứng dậy, đi về phía Vân Trạch, ba huynh đệ họ đứng dưới gốc phượng hoàng cười cười nói nói, chẳng nhìn nhõi gì đến Thiếu Hạo.
Y vội ôm vò rượu chạy tới, “Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý! Mọi người lại cùng nhau uống rượu đi, chỉ một lần này thôi mà!” Nhưng bất kể y chạy bao lâu, cũng không chạy tới được.
“Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý…”
Y đã mệt đến nỗi mồ hôi đầy đầu, mắt thấy sắp đuổi đến nơi, đột nhiên Thanh Dương rút kiếm ra chỉ thẳng vào y: “Tại sao ngươi không cứu Xương Ý? Chẳng phải ngươi đã thề rằng ngươi chính là Thanh Dương ư? Đồ tiểu nhân bội tín bạc nghĩa nhà ngươi!”
Thiếu Hạo không sao tránh né, đành giương mắt nhìn thanh kiếm cắm ngập vào tim mình, “A…”
Thiếu Hạo bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa, nằm giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu, Thiếu Hạo nhất thời cũng chẳng biết bản thân đang ở đâu nữa, đương lúc mơ màng, y còn tưởng mình đang uống rượu với Thanh Dương, bèn trở mình gọi: “Thanh Dương, ta vừa gặp ác mộng.” Coong một tiếng, chẳng rõ thứ gì vừa rơi xuống đất, y cúi đầu nhìn, thấy trong miếng thủy ngọc xanh biếc đặt một ngón tay út, đột nhiên, cả người toát mồ hôi lạnh.
Thanh Dương không còn nữa, Vân Trạch không còn nữa, Xương Ý không còn nữa, A Hành cũng đi rồi!
Y ngơ ngác ngẩng đầu, lại chẳng hiểu rốt cuộc muốn nhìn gì, chỉ thấy một vành trắng lạnh in bóng lên rèm lụa, cô quạnh tịch liêu.
Bốn anh em Si Mỵ Võng Lượng chạy xộc vào phòng hô hoán: “Tin động trời, tin động trời đây.”
Phong Bá nghe hò hét mà ong cả óc, liền nạt: “Nếu không phải tin động trời, ta sẽ phạt mỗi tên ba mươi roi.”
Mỵ dương dương đắc ý cười nói: “Lần này huynh không phạt được bọn ta đâu, quả là tin động trời đó.”
Thấy chúng lại tiếp tục đấu võ mồm với Phong Bá, Xi Vưu bực bội quát: “Nói!”
Nghe tiếng quát, Si Mỵ Võng Lượng tức thì đứng nghiêm, Si nói: “Hiên Viên vương cơ thôi không làm Cao Tân vương phi nữa rồi.”
“Gì cơ?” Phong Bá và Vũ Sư đồng thanh hỏi.
Si nháy mắt với cả hai, như thể nói: Thấy chưa, rõ ràng là tin động trời mà, không ngoa tí nào nhé!.
Xi Vưu chống hay tay lên bàn, chồm người tới trước, nôn nóng: “Các ngươi nói lại nghe nào.”
Mỵ đáp: “Cao Tân vương phi nói mình tài hèn đức mọn, không xứng với Thiếu Hạo nên tự động từ hôn, từ nay trở đi chỉ còn là Hiên Viên vương cơ, chứ không phải là Cao Tân vương phi nữa, có thể tự do kết hôn.”
Phong Bá nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc Hiên Viên vương cơ có ý gì vậy? Giờ đang là lúc Hiên Viên cần Cao Tân nhất, vậy mà cô ta phải phá hủy mối liên minh với Cao Tân là sao?” Chợt nghĩ lại, y vụt hỏi: “Tin này công bố lúc nào?”
Si đáp: “Sáng sớm nay.”
“Thảo nào, đây nhất định không phải ý của Hoàng Đế, mà là Hiên Viên cơ tự tiện đưa ra.” Phong Bá cười với Xi Vưu, “Đúng là trời giúp Thần Nông rồi, ắt hẳn Cao Tân sẽ coi đây là mối nhục lớn, dẫu Hiên Viên vương cơ muốn rút lời lại cũng chẳng dễ dàng gì đâu.”
Xi Vưu từ từ ngồi xuống, vẻ mặt vừa bi ai lại vừa mừng rỡ. Thì ra đây chính là lễ vật A Hành tặng cho hắn – tự do của nàng!
Nhưng lúc này đây, hẳn A Hành đã biết mọi chuyện rồi?
Từ sáng, sau khi công bố hủy bỏ cuộc hôn nhân với Thiếu Hạo, A Hành vẫn ở lì trên Triêu Vân phong, thu dọn di vật của Luy Tổ, nàng đang đợi cơn thịnh nộ của Hoàng Đế giáng xuống.
Mãi đến chập choạng tối mới thấy cung nữ hớt hơ hớt hãi chạy vào thông báo: “Hoàng Đế, Hoàng Đế đến rồi!”
A Hành chậm rãi đứng dậy bước ra ngoài, nàng cứ ngỡ rằng sẽ trông thấy Hoàng Đế bừng bừng lửa giận, đứng giữa đám thị vệ dương dương tự đắc, trợn trừng mắt phẫn nộ nhìn nàng. Nhưng ra đến ngoài điện, nàng chỉ thấy Tượng Võng thúc thúc te tua thảm hại, Ly Chu thúc thúc khắp người đầy máu.
Bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của nàng, Tượng Võng và Ly Chu đồng loạt quỳ xuống: “Xin vương cơ lập tức phái tâm phúc tới Quy khư mời Đại điện hạ xuất quan.”
A Hành nhìn vào điện, thấy đám thầy thuốc đang xúm xít tất bật quang giường: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Tượng Võng bẩm: “Chúng ta trúng kế Xi Vưu, Hoàng Đế bị trọng thương e rằng không ổn…phải mời nagy Thanh Dương điện hạ về, gặp bệ hạ lần cuối.”
Như sấm nổ giữa trời quang, A Hành chợt thấy thần trí trống rỗng, đờ người tại chỗ. Nàng không tin! Phụ vương nàng là Hoàng Đế oai phong lẫm liệt, chẳng ai dám trái ý kia mà, sao có thể nguy cấp được? Hôm qua nàng còn láng máng nghe đồn Xi Vưu bị ép đến nổi cạn lương hết đạn, sắp thất bại rồi mà.
A Hành tức tốc chạy vào đại điện, rẽ đám đông ra, xông đến bên giường, chỉ thấy Hoàng Đế hai mắt nhắm nghiền, sắt mặt tái nhợt.
“Phụ vương, phụ vương…” A Hành không kiềm được gọi ầm lên. Hoàng Đế chợt mở bừng mắt, mơ màng nhìn A Hành, mỉm cười nhẹ nhõm: “A Luy, ta biết thế nào nàng cũng đến mà, thấy nàng là ta yên tâm rồi.”
Tượng Võng và Ly Chu đứng bên nghe thấy, sống mũi bỗng cay xè, lệ tràn lên mắt. Trước là Vương hậu qua đời, rồi lại tới Hoàng Đế trọng thương, chỉ trong một đêm, Hiên Viên đã chao đảo sắp sụp đổ.
Thứ phi Phương Lôi, Tứ phi Mô Mẫu đều hay tin chạy đến, Phương Lôi đã hoảng loạn, chỉ biết khóc nức nở, còn Mô Mẫu vẫn giữ được bình tĩnh, hỏi: “Thương thế ra sao?”
Đám thầy thuốc đều nhất loạt quỳ xuống, dập đầu lia lịa, không dám lên tiếng, chỉ có một lão thầy thuốc già đánh bạo lên tiếng thưa: “Thương thế rất nặng, phải mau mau mời Đại điện hạ về thôi, nếu về nhanh, may ra còn kịp gặp mặt lần cuối.”
Nghe thấy câu đó, Phương Lôi liền ngất xỉu, Mô Mẫu cũng bủn rủn ngồi phệch xuống đất, nhất thời trong điện hỗn loạn cả lên.
A Hành nắm lấy hai cổ tay Hoàng Đế, thăm mạch cho ông, lát sau, nàng rút ngọc trâm trên đầu xuống, phong bế mạch tức vài ba nơi trên người ông, đoạn quay ra bảo Ly Chu và Tượng Võng: “Phiền hai vị thúc thúc cho tất cả mọi người lui ra ngoài.”
Tượng Võng nôn nóng thưa: “Vương cơ, chúng ta phải lập tức mời Thanh Dương điện hạ về ngay, bằng không Hiên Viên sẽ đại loạn mất.”
A Hành đáp: “Việc cấp bách hiện giờ của chúng ta là phải cứu phụ vương đã.”
Tượng Võng tính tình nóng nảy, lại là đại tướng khai quốc từng theo Hoàng Đế Nam chinh Bắc chiến giành lấy thiên hạ, trong lúc cấp bách cũng chẳng lựa lời, cứ thế nói thẳng toẹt: “Đương nhiên phải cứu bệ hạ, nhưng ngay cả những thầy thuốc giỏi nhất nước cũng đã chẩn đoán rồi, trừ khi Viêm Đế Thần Nông tái sinh, bằng không làm sao cứu được?”
A Hành hỏi: “Phụ vương trước sau trọng thương hai lần, lần thứ nhất là linh thể bị trường đao chém trúng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm trọng nhưng cũng như đánh rắn vậy, dù chém rắn đứt làm đôi mà không trúng chỗ hiểm, thì vẫn còn cứu được. Có điều ngay sau đó, phụ vương lại trúng một chưởng vào ngực, đã thương lại thêm thương, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai vị thúc thúc, con đoán có đúng không?”
Tượng Võng nghe nói tới vết thương đầu tiên liền gật đầu lia lịa, nhưng đến vết thương thứ hai, ông ta càng nghe càng lộ vẻ quái lạ, mở miệng toan nói.
Ly Chu chợt ấn vào vai Tượng Võng, kinh ngạc hỏi: “Hành nha đầu, con biết y thuật từ bao giờ thế? Tình hình khi đó đúng như con nói, thoạt đầu Xi Vưu vung đao chém linh long của Hoàng Đế, tuy linh long bị chém thành hai đoạn, nhưng Hoàng Đế vẫn tránh được, không trúng phải chỗ yếu hại. Thấy Hoàng Đế ngã từ trên tọa kỵ xuống, không còn sức tự vệ, Xi Vưu bèn đuổi theo, bồi thêm một chưởng.”
A Hành đáp: “Nói ra thì dài lắm, tóm lại hai vị thúc thúc có tin con không? Nếu để cho con an bài mọi sự thì vẫn còn cứu được phụ vương.”
Tượng Võng không nói gì, chỉ nhìn sang Ly Chu. Ly Chu liền nói: “Chúng ta không tin con thì còn biết tin ai? Con cứ tùy ý quyết định mọi chuyện đi.”
“Cần tìm một vị cao thủ tinh thông trận pháp để bày trận, sau đó con sẽ dùng linh dược giúp phụ vương điều dưỡng, nếu mọi việc thuận lợi, chắc có thể giữ được tính mạng. Linh dược con đã có đủ đầy rồi, chỉ thiếu cao thủ bày trận…”
Tri Mạt chợt bước vào nói: “Xin để vi thần bày trận.”
Tượng Võng vô cùng kinh ngạc, mừng đến nỗi thiếu điều nhảy cẩng lên: “Rốt cuộc ông cũng quay về rồi!”
Thuở nhỏ, A Hành đã lớn lên cùng những câu chuyện của Tri Mạt, theo nàng được biết, ông ta vốn thuộc tầng lớp hạ lưu ở Cao Tân khi quen biết phụ vương, ông ta rất tinh thông trận pháp, giỏi bày mưu tính kế, từng phò tá phụ vương lập ra Hiên Viên quốc, là khai quốc công thần bậc nhất Hiên Viện, được tôn vinh là Đế sư. Nhưng sau khi Hiên Viên lập quốc, ông ta và Hoàng Đế nảy sinh bất đồng, quan hệ ngày càng lạt lẽo, trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, ông đã treo ấn từ quan, ẩn cư lánh đời.
Luy Tổ rất mực kính trọng Tri Mạt nên trước mặt ông, xưa nay A Hành chưa hề coi mình là vương cơ, vội hành lễ với Tri Mạt: “Mọi chuyện xin trông cả vào bá bá.”
Theo yêu cầu của A Hành, Tri Mạt dốc hết tâm sức bày bố trận pháp, còn nàng phong ấn thân thể Hoàng Đế vào trận, tạm thời tính mạng Hoàng Đế không có gì đáng ngại, nhưng rốt cuộc có trị khỏi được hay không, còn phải trông vào y thuật của A Hành và sức khỏe của Hoàng Đế.
Nửa đêm, A Hành dỗ Chuyên Húc và Tiểu Yêu ngủ xong, vừa bước ra khỏi phòng, chợt thấy trước mắt tối sầm lại, xuýt nữa ngất xỉu. Bây giờ nàng mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống suốt một ngày trời, định tìm gì đó ăn đỡ, nhưng lại thấy nôn nao trong dạ, chẳng biết phải ăn gì nữa.
Nàng tìm được trong bếp nửa hũ dâu lạnh chính tay Luy Tổ làm, bèn lặng lẽ ôm vào lòng, ngồi xuống chiếc sập bên cửa sổ, nhón mấy chum đưa lên miệng, vị dâu lành lạnh man mát, chua chua ngòn ngọt tan ra trong miệng.
A Hành nhắm nghiền mắt lại, tựa như trông thấy tuyết rơi lả tả, Đại ca vận áo lam đứng giữa một trời tuyết trắng, mẫu hậu đẩy cửa sổ, nhìn mưa tuyết đầy trời, liền sai cung nữ đi hái dâu lạnh tươi rói, trong khi nàng và Tứ ca đang nằm dài ra tuyết cười đùa, chuẩn bị bắc bếp lò hâm rượu, Xương Phó mặc chiếc váy đỏ hồng, vốc tuyết ném vào đầu cả hai. A Hành bật dậy đuổi theo Xương Phó, hai người đều ngả nhào xuống tuyết.
A Hành nhoẻn miệng cười, lại nhón một vốc bia lạnh đưa lên miệng, những mong kéo dài niềm hạnh phúc ngòn ngọt chua chua ấy.
Xương Phó bị huynh muội nàng ảnh hưởng, cũng rất thích ăn dâu lạnh, ba người chẳng hề ngại rét, còn đứng ngay dưới gốc dâu, vừa cười đùa vừa hái dâu ăn. Những lúc ấy, Đại ca thường đứng xa xa nhìn lại, dẫu có bắt chuyện, y cũng chỉ ơ hờ vài câu rồi thôi. Nhiều lúc A Hành phát cáu, liền lấy tuyết ném y, tới chừng y ngoảnh đầu nhìn, nàng liền chạy đến nấp sau lưng Xương Phó, đại ca rất nghiêm khắc với nàng và Tứ ca, nhưng rất ôn hòa với Xương Phó.
Đợi Đại ca quay đi, nàng lại tiếp tục dương oai diễu võ, tay đấm chân đá với bóng lưng y, nhưng hễ y ngoái đầu là nàng nem nép, còn ngoan hơn thỏ, Xương Phó đứng bên vừa cười vừa ghẹo nàng.
A Hành cười, lại thò tay vào hũ, nhưng chỉ bốc vào khoảng không, thì ra nàng đã ăn hết nửa hũ dâu lạnh, chẳng còn sót mảy may! Bao nhiêu mộng mơ đều tan cả rồi!
A Hành lần tay vét nốt bên thành hũ, cuối cùng cũng vét được mấy mẩu vụn dính trên thành, nàng nhìn nhúm dâu lạnh còn sót lại, toan đưa lên miệng, nhưng lại tiếc rẻ không đành, ngẩn người ra nhìn một lúc lâu, mới dè dặt đưa từng mẩu nhỏ vào miệng.
Chua chua ngòn ngọt, lành lạnh man mát.
Nàng ôm lấy chiếc hũ không, nước mắt như mưa.
Xi Vưu đáp xuống giữa sân, nhìn vào thấy trong nhà tối om. Gió động song sa, phát ra những tiếng nức nở nghẹn ngào.
Xi Vưu bước lại gần bên song, tiếng động kia càng lúc càng rõ hơn, hóa ra là tiếng khóc tức tưởi.
Tiếng thổn thức đứt quãng, nhưng lại liên tục cứa vào lòng hắn.
Tay hắn đặt lên cửa sổ, chỉ cần đẩy khẽ một cái là mở được cửa sổ ra, lau khô nước mắt cho nàng, nhưng hắn quyết không dám dùng đôi tay đẫm máu này chạm tới nàng, vỗ về nàng.
A Hành áp mặt vào hũ dâu lạnh rỗng không, giọng khản đặc, “Chàng ở ngoài ư?”
“Ừm.”
“Sao sáng nay chàng không nói thực với ta?”
Xi Vưu lặng thinh.
“Ta biết chàng muốn báo thù cho Du Võng, nhưng dù sao đó cũng là người đã sinh ra ta, nuôi nấng ta.”
Xi Vưu máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào. Kẻ đả thương Hoàng Đế là hắn, hạ lệnh đồ sát binh sĩ Hiên Viên là hắn, có giải thích cũng chỉ là viện cớ, nên hắn không muốn, càng không buồn giải thích.
A Hành khẽ nói: “Chàng về đi, hiện giờ phụ vương đang trọng thương hôn mê, sống chết khó liệu, ta phải chăm sóc cho người.”
Xi Vưu vẫn bình thản đứng đó, nhưng bàn tay đặt trên khung cửa lại run bắn lên, linh khí tràn ra như nước vỡ bờ, không sao khống chế, song cửa lục lăng chạm trỗ từ gỗ đào chợt bừng lên sức sống, lá xanh mơn mởn nhú ra, vô vàng nụ hoa phấn trắng ló ra từ kẽ lá, từ từ xòe nở, chớp mắt, cả khung cửa chằng chịt cánh nhánh, rực rỡ muôn hoa.
A Hành thần người nhìn hoa đào nở đầy cửa sổ, nước mắt thánh thót rơi, nhỏ lên cánh hoa đỏ thắm.
“Mẹ, sao mẹ còn chưa ngủ?” Tiểu Yêu dụi mắt, lệt xệt bước lại. Thấy A Hành đang khóc, bé lập tức leo lên sập, ngoan ngoãn lau nước mắt cho nàng, “Mẹ đừng khóc, ông ngoại sẽ khỏe thôi mà.”
Nghe thấy tiếng bé, Xi Vưu rung động cả tâm thần, bất giác đẩy cửa sổ ra, vươn tay qua khung cửa rực hoa, toan ẵm con gái, “Tiểu Yêu.”
Nào ngờ, Tiểu Yêu lại hung hăn cắn phập vào tay hắn. Cả ngày nay nghe đám cung nhân kể lể chuyện Xi Vưu đả thương ông ngoại, Chuyên Húc còn nói Xi Vưu chính là thúc thúc áo đỏ lần trước đã cứu bé về, nên Tiểu Yêu sinh lòng căm hận Xi Vưu vô kể.
A Hành vội bế xốc Tiểu Yêu, kéo bé ra, nhưng Tiểu Yêu vẫn tay đấm chân đá, hét toáng lên: “Đồ xấu xa! Ta phải giết ngươi báo thù cho ông ngoại.”
Cánh tay Xi Vưu bị Tiểu Yêu rứt mất một miếng thịt, máu chảy đầm đìa, ướt đẫm vạt hoa đào, nhưng hắn như chẳng biết đau, cứ ngây ra nhìn đôi mắt thù hận của Tiểu Yêu, thoắt chốc, nhu tình dào dạt đều hóa thành buốt giá thấu xương, ánh mắt con gái như một thanh kiếm nhọn hoắt, khoét sâu vào trái tim hắn, khiến hắn đau đến nghẹt thở.
A Hành vừa bịt chặt miệng con gái, không cho bé la hét, vừa nhìn Xi Vưu, nước mắt như mưa, “Còn chưa đi đi? Thị vệ sắp tới bây giờ, lẽ nào chàng muốn đại khai sát giới trước mặt con gái ư?”
Xi Vưu đau đáu nhìn A Hành và Tiểu Yêu rồi cưỡi Tiêu Dao bay vụt lên chín tầng trời, để gió lạnh cứa vào rát mặt. Xi Vưu ngửa cổ nhìn trời, rống lên thê thiết như loài sói, hắn không làm gì sai, nàng cũng không làm gì sai, tại sao lại thành ra thế này?
Mất đi linh lực của Xi Vưu, hoa đào dần tàn héo rơi rụng, những cánh hoa vấy máu lần lượt lìa cành rơi xuống, như từng mảnh tim vỡ nát. A Hành ôm Tiểu Yêu trong lòng, chẳng nói chẳng rằng, chỉ thần người ra nhìn những cánh hoa.
Vân Tang, Chu Du nghe thấy tiếng kêu khóc của Tiểu Yêu, liền vội vã dẫn thị vệ chạy tới, nhưng chẳng có gì cả, chỉ thấy A Hành đang ẵm Tiểu Yêu, ngẩn ngơ ngồi giữa muôn ngàn cánh đào đẫm máu.
“A Hành, sao thế?”
A Hành chậm chạp quay đầu lại, nhìn về phía bọn họ. Thoạt trông thấy nàng, Vân Tang bỗng giựt thót mình, dung nhan A Hành vô cùng tiều tụy, ánh mắt buồn hiu hắt, dường như chỉ trong một đêm đã già sọm hẳn đi.