Quyển 2 – Chương 7: Đời đời xin nguyện làm huynh đệ[1]
Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?
[1] Trích trong bài Gửi cho Tử Do từ trong tù kỳ 1 của Tô Đông Pha (1036 – 1101). (ND)
Xương Ý nhận được tin do Huyền điểu đưa đến, lập tức chạy đến Quy khư, nhưng đã chậm mất hai ngày.
Lúc báo tin, Thiếu Hạo cũng chẳng nói cụ thể nguyên do, chỉ mời y đến ngay tức khắc. Xương Ý ngỡ A Hành xảy ra chuyện nên tức tốc chạy đến, tới nơi, thấy một lá thuyền con dập dềnh theo làn nước. Thiếu Hạo và A Hành người ngồi kẻ đứng trên thuyền, y mới thở phào nhẹ nhõm.
Xương Ý nhảy từ trên lưng Trùng Minh điểu xuống thuyền, cười hỏi A Hành: “Xảy ra chuyện gì mà giục ta đến ngay thế?”
A Hành vừa mở miệng, chưa kịp nói tiếng nào, nước mắt đã chứa chan.
Thiếu Hạo đưa hai tay lên, dưới sự điều khiển của y, mặt nước trước mũi thuyền từ từ dâng lên, nâng theo cả một cỗ quan tài băng xanh biếc. Bên trong quan tài là Thanh Dương đang nằm lặng lẽ, hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt an nhiên, chẳng có chút sinh khí.
Xương Ý gượng cười, “Đừng dùng rối gỗ lừa ta nữa, huynh biết linh lực của ta kém xa huynh mà.”
“Y chính là Thanh Dương đó.”
“Không thể nào! Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, trên đời này làm gì có ai đả thương nổi huynh ấy, cả huynh cũng không đánh bại được huynh ấy cơ mà!” Xương Ý tái mét mặt, nhưng vẫn khăng khăng cố chấp, “Không thể nào! Sao huynh có thể đem chuyện này ra đùa ta được?”
Nước mắt A Hành lã chã rơi, phải rồi, Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, là Hiên Viên Thanh Dương lạnh lùng nhất, hùng mạnh nhất trong thiên hạ, sao có thể chết được chứ?
Trông dáng điệu của A Hành, Xương Ý liền quỳ sụp xuống thuyền, trân trân giương mắt nhìn Đại ca, vẻ mặt đờ đẫn, không khóc lóc, cũng chẳng hề động đậy.
Nhìn biểu hiện của Xương Ý, Thiếu Hạo càng thêm lo lắng, lần trước nghe nói A Hành tử vong, chí ít Xương Ý còn biết nổi giận, nhưng lần này, y chẳng hề phản ứng.
“Xương Ý, Xương Ý, nếu đệ đau lòng thì cứ khóc lên đi.”
Xương Ý chẳng buồn để ý mấy lời của y, chỉ thẫn thờ vịn vào quan tài, hồi lâu sau mới sầm mặt hỏi: “Kẻ nào? Là kẻ nào?”
Thiếu Hạo chẳng cất nổi nên lời, rốt cuộc ai mới là kẻ giết hại Thanh Dương đây? Là Xi Vưu, là Hoàng Đế, Là Di Bành, hay chính là y?
Không thấy ai trả lời mình, Xương Ý quay sang gào lên với A Hành: “ Rốt cuộc là kẻ nào?”
A Hành tái mặt, khóc không ra tiếng, chẳng dám nhìn vào mặt Tứ ca. Nhìn dáng vẻ của nàng, Xương Ý cũng dần hiểu ra, “Là Xi Vưu ư?”
“Phụ vương giết chết Du Võng, Xi Vưu hắn, hắn không cố ý giết chết Đại ca đâu… Đại ca vì cứu phụ vương nên đã hứng một đòn chí mạng của Xi Vưu.” Lòng A Hành đã nguội lạnh như tro tàn, giải thích thế nào cũng có ích gì nữa đâu? Thanh Dương đích thực đã chết dưới tay Xi Vưu kia mà.
Xương Ý ngửa mặt nhìn trời, tròng mắt đầy những lệ, nhưng y chỉ mở to mắt trừng trừng nhìn lên, mãi tới khi nước mắt tan đi cả mới thôi. Y còn mẹ, còn muội muội, y không được phép yếu đuối! Giờ đây y mới hiểu được tâm tình của Đại ca, vì mẹ, vì y, vì A Hành, Đại ca đã trút bỏ sự yếu đuối cùng nụ cười rạng rỡ để chọn lấy vẻ lạnh lùng và cứng cỏi.
Xương Ý bình thản nói: “Dọc đường tới đây, ta chỉ toàn nhận được tin Hiên Viên đại thắng, chẳng ai nói Hiên Viên Thanh Dương đã xảy ra chuyện gì cả.”
Thiếu Hạo giải thích: “Lúc đó tình hình rất căng, quân Thần Nông đang rối loạn, nếu Hoàng Đế bỏ lỡ thời cơ ấy thì trận chiến lần này xem như công cốc, bởi thế ngài lập tức dẫn quân tấn công ngay, chỉ kịp biết Thanh Dương bị trọng thương chứ chưa hay y đã lìa trần.”
Xương Ý thê thảm nghĩ thầm, Đại ca vì cứu phụ vương mới bị trong thương, ấy vậy mà phụ vương chỉ chăm chăm dẫn quân công thành, chẳng buồn nán lại bên Đại ca chốc lát, lẽ nào đối với ông, thiên hạ quan trọng đến thế sao?
“Đại ca thần lực cao cường, nếu đã muốn cứu phụ vương, ắt phải có chuẩn bị sẵn, sao Xi Vưu có thể một đòn… một đòn giết chết Đại ca!”
Nghe Xương Ý hỏi, A Hành cũng sực nghĩ ra, bèn quay sang nhìn chằm chằm Thiếu Hạo, chất vấn: “Mấy năm nay, tuy thần lực của Xi Vưu tăng vọt nhưng nếu giao chiến trực diện cũng không thể nào một chiêu giết chết được chàng hay Đại ca!”
Thiếu Hạo chỉ biết đau đớn làm thinh.
Nỗi kinh hoàng chợt dâng lên ngập lòng A Hành, nàng lớn tiếng hỏi: “Đại ca và phụ vương nhắc tới chuyện thuốc độc gì đó, nhưng thiếp nghiệm thi thấy không có độc, rốt cuộc là sao?”
Thiếu Hạo không dám đối diện ánh mắt nàng, đành cúi gầm mặt, đăm đăm nhìn Thanh Dương, lí nhí: “Để bảo vệ bản thân, Thanh Dương định bức Hoàng Đế thoái vị, Hoàng Đế phát hiện được, liền đánh tráo thuốc độc, khiến Thanh Dương uống phải chính thứ nước mà y chuẩn bị cho Hoàng Đế. Nhưng thật ra đến phút cuối Thanh Dương lại hối hận, y đã lén đổi vò nước độc, thay vào đó là vò nước bình thường, nào ngờ Hoàng Đế đã phát hiện từ sớm, liền ra tay đánh tráo vò nước độc trước cả y, lấy gậy ông đập lưng ông. Khi y thay Hoàng Đế hứng chịu một chiêu chí mạng của Xi Vưu, chất độc đột ngột phát tác khiến linh lực đứt đoạn…” Thiếu Hạo nghẹn lời, phải hít một hơi thật sâu, lấy lại bình tĩnh mới kể tiếp được: “Từ khi nhận ra Thanh Dương có ý khác, Hoàng Đế đã phái Di Bành ngày đêm theo dõi Thanh Dương, hôm đó chính Di Bành phụ trách trấn giữ đại điện, hắn hẳn cũng biết hết mọi chuyện nhưng thay vì kịp thời bẩm báo với Hoàng Đế, hắn lại ém nhẹm đi, mượn tay Hoàng Đế hạ độc Thanh Dương, hung thủ thực sự hại chết Thanh Dương không phải là Xi Vưu, mà là Di Bành.”
Xương Ý và A Hành nghe đến ngẩn cả người, hồ vẫn chưa thủng cái vòng luẩn quẩn người hại ta ta hại người kia.
Hồi lâu, Xương Ý bỗng kinh hãi hỏi: “Huynh nói Đại ca định đánh độc giết phụ vương ư?”
Thiếu Hạo vội thanh minh: “Không phải, chất độc đó chỉ khiến Hoàng Đế bải hoải toàn thân, không thể xử lý triều chính, chứ không chết người. Thanh Dương chưa bao giờ có ý hại chết Hoàng Đế.”
Xương Ý vặn tiếp: “Đồ ăn thức uống của phụ vương đều có thầy thuốc kiểm tra, Đại ca lấy đâu ra thứ độc qua mặt được cả đám thầy thuốc thế?”
Bây giờ A Hành mới hiểu ra tất cả, nàng chợt thấy hai mắt tối sầm lại, đau đớn và phẫn uất ứ đầy lòng, thân hình đổ gục xuống, Xương Ý phải cuống quýt đỡ lấy nàng. A Hành trợn trừng hai mắt nhìn Thiếu Hạo, mấp máy môi mà không sao thốt nổi nên lời, sắc mặt xám ngoét, cả người cứ thế run lên bần bật.
Thiếu Hạo vuốt nhẹ lên quan tài của Thanh Dương, khẽ nói: “Là chất độc mà nàng phối chế cho ta đó, nhưng chuyện này không liên quan gì đến nàng, đây là quyết định của riêng ta và Thanh Dương thôi.”
Xương Ý kinh hoàng trợn mắt nhìn A Hành, “Là, là muội… là thuốc độc muội phối chế?”
“A… a… a…” A Hành chẳng còn nước mắt mà khóc, chỉ biết gào lên thảm thiết, hai tay liên tục đấm ngực mình, chỉ hận không lóc da xẻo thịt bản thân mình ngay được.
Thiếu Hạo quỳ khuỵu một gối xuống, ra sức giữ chặt lấy nàng: “A Hành, nghe này! Là do ta, đều tại ta cả! Tại ta tự mãn, đánh giá thấp Hoàng Đế! Tại ta nhìn nhầm Thanh Dương, ta cứ ngỡ y cũng giống như ta! A Hành, không liên quan gì đến nàng cả, không liên quan gì đến nàng mà! Nàng chẳng hay biết gì cả, là ta đã gạt nàng!”
Thiếu Hạo thuật lại vắn tắt mọi chuyện cho Xương Ý, nói rõ độc dược là mình nhờ A Hành phối chế để hạ độc Yến Long, nhưng rồi lại lén tuồn cho Thanh Dương.
Xương Ý trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, mắt long sòng sọc, cánh tay bất giác giơ lên.
Thiếu Hạo quỳ sụp xuống trước quan tài Thanh Dương, “Đệ muốn đánh muốn giết thì cứ đáng cứ giết đi!” Mấy ngày nay, tuy vẫn ráng giữ vẻ bình thản nhưng thật lòng Thiếu Hạo cũng đau đớn chẳng kém gì Xương Ý và A Hành, thế nên lúc này y chỉ hy vọng Xương Ý xuống tay đánh mình.
Xương Ý một chưởng vung ra đập mạnh vào người Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng chẳng hề vận linh lực để kháng, cứ quỳ thẳng tắp trước linh cửu Thanh Dương, mặc cho khóe miệng ứa máu. Đánh được một chưởng, Xương Ý lại vung tay lên toan bồi thêm chưởng nữa, nhưng nhìn Thanh Dương an lành nằm trong quan tài như ngủ, y không sao xuống tay được, keng một tiếng, rút soạt kiếm ra, “Ta phải đi giết Di Bành!”
A Hành vội kéo y lại, van nài: “Tứ ca, đừng kích động!” Xương Ý rảy mạnh A Hành ra, nhảy lên tọa kỵ toan đi.
Thiếu Hạo liền quay phắt lại, nhào tới nắm lấy lưỡi kiếm của Xương Ý, mặc bàn tay ròng ròng máu, một mực khẩn thiết thuyết phục, “Xương Ý, hiện giờ đệ là con trưởng trong nhà, phải gánh lấy trách nhiệm trông nom mẹ và muội muội thay Thanh Dương!”
Xương Ý bất giác đưa mắt nhìn về phía Đại ca, cả người dần dần xụi lơ, giờ đây y đã trở thành con lớn, không thể kích động như thế được.
Thấy Xương Ý có vẻ xuôi xuôi, Thiếu Hạo bèn buông mũi kiếm ra, khuyên nhủ: “Nếu Thanh Dương qua đời, Di Bành ắt hẳn trở thành kẻ duy nhất có thể kế thừa vương vị, hắn được các quan giúp đỡ, thế lực càng ngày càng bành trướng, đệ chẳng những phải tự lo lấy thân mà còn phải bảo vệ Luy Tổ, nhất định đừng để sơ sẩy.”
Hơn ai hết, Xương Ý hiểu Di Bành rất căm hận mẹ của mình, một khi hắn đăng cơ, chắc chắn sẽ không tha cho họ.
Thiếu Hạo lại nói: “Ta có kế này may ra áp chế được Di Bành, Thanh Dương cũng đã tán đồng rồi.”
A Hành và Xương Ý đều dồn mắt về phía y, Thiếu Hạo trình bày: “Chỉ có ta và A Hành biết được dược tính của thuốc độc mà thôi, Thanh Dương thần lực cao cường, chắc hẳn Hoàng Đế không tin một đòn của Xi Vưu mà giết được y đâu. Ta đã phong tỏa nghiêm ngặt tin này, trừ ba người chúng ta, không còn ai biết về cái chết của Thanh Dương cả.” Thiếu Hạo nhấn mạnh, “Cũng đừng để mọi người biết.”
A Hành và Xương Ý chợt hiểu ra ý định của Thiếu Hạo, chỉ cần Thanh Dương chưa chết, đám triều thần cũng chẳng dám về hùa với Di Bành, đây chính là biện pháp hiệu quả nhất để khắc chế hắn.
Xương Ý còn đang trù trừ, A Hành đã lên tiếng: “Thiếp đồng ý!” Thấy muội muội tán đồng, Xương Ý cũng gật đầu.
Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta sẽ viết thư với Hoàng Đế rằng thầy thuốc thấy trong người Thanh Dương vẫn còn chất độc, thương thế rất nặng, phải ở lại Quy khư bế quan trị thương, ít ra cũng tranh thủ được một hai trăm năm.”
A Hành hỏi: “Lỡ phụ vương phái người tới dò xét thì sao? Chúng ta lấy đâu ra Đại ca để đối phó đây?”
Thiếu Hạo trỏ làn nước dưới Quy khư, “Người đời thường nói Cửu vĩ hồ là giống giỏi biến hóa nhất, thật ra còn thứ khác biến hình giỏi hơn Cửu vĩ hồ nhiều. Như nước kia, đựng bầu thì tròn, đựng ống thì dài, ở trên trời hóa thành mây mưa hơi nước, ở dưới đất hóa thành sương tuyết sông ngòi, ở trong người chúng ta lại trở thành máu huyết sinh mạng.”
Nói rồi, Thiếu Hạo lập tức biến Thanh Dương, giọng nói cử chỉ đều như khuôn đúc, “Ta quen biết Thanh Dương đã hai ngàn năm, lại tu luyện thủy linh, nắm rõ pháp thuật của đối phương. Hồi nhỏ chúng ta cũng từng tráo đổi thân phận náo loạn một phen, mọi người đều nói Thiếu Hạo một mình đẩy lui mười vạn đại quân Thần Nông, thật ra không đâu, đó là Thanh Dương và ta cùng làm.”
Xương Ý chăm chú nhìn Thiếu Hạo, thấy y chẳng khác Thanh Dương mảy may nào.
Thiếu Hạo lại tiếp: “Nếu ngày ngày ở bên, ắt sẽ phát hiện ra, nhưng hiện giờ Thanh Dương đang bị trọng thương, nói năng cử động đều khó khăn, người đến thăm cũng chỉ có thể nhìn qua mà thôi, bằng vào thần lực của mình, dẫu là Hoàng Đế đích thân tới đây, ta vẫn tự tin ứng phó được.”
Bây giờ, A Hành mới hiểu lời hứa của Thiếu Hạo với Đại ca trước lúc lâm chung, “Từ nay trở đi, ta chính là Thanh Dương”, chẳng phải một cách so sánh, mà y quả thật đã trở thành Thanh Dương. Đại ca hiểu ý Thiếu Hạo nên mới yên lòng ra đi.
Xét thấy kế sách của Thiếu Hạo rất ổn, A Hành quay sang hỏi Xương Ý: “Có nên nói thật cho mẹ biết không?”
Xương Ý đắn đo một hồi rồi đáp: “Chúng ta đau khổ đến mấy cũng chẳng bằng phân nửa nổi đau của mẹ đâu. Vân Trạch qua đời, mẹ đã chết nửa cõi lòng, tới lượt muội chìm dưới đáy Ngu uyên, nửa cõi lòng của mẹ cũng chết lặng, nếu giờ biết chuyện Đại ca lìa trần, e rằng mẹ…”
A Hành gật gật đầu rồi trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, vẻ căm hận vẫn hằn lên trong mắt, hồi lâu, nàng mới buồn rầu nói: “Sau này mọi chuyện đều nhờ cả vào chàng.”
Thiếu Hạo thừ người, lẳng lặng khôi phục nguyên dạng, triệt tiêu linh lực, để quan tài băng mang theo Thanh Dương từ từ chìm xuống Quy khư. Xương Ý và A Hành đứng cạnh nhau, cùng lưu luyến nhìn Đại ca. Y chết đi rồi, nhưng bọn họ vẫn được uy thế của y bảo vệ.
Hoàng Đế nhận được thư Thiếu Hạo liền phái Ly Chu, Ứng Long và Xương Phó đưa Luy Tổ tới Cao Tân thăm Thanh Dương.
Luy Tổ đứng ngoài cửa động nhìn Thanh Dương đang bế quan trị thương dưới đáy Quy khư, lặng thinh không nói.
Biết Ly Chu là tâm phúc của Hoàng Đế, A Hành âm thầm dò xét nét mặt ông ta, nhưng Ly Chu chẳng hề tỏ vẻ nghi ngờ, chỉ mãi buồn rầu an ủi Luy Tổ.
Ứng Long chợt lo lắng hỏi: “Thần có thể làm gì cho điện hạ đây?”
Luy Tổ gượng cười đáp: “Thanh Dương tu luyện thủy linh, Quy khư này lại là cội nguồn vạn thủy, linh khí dồi dào, hiện giờ chỉ cần kiên trì trị thương thôi.”
Luy Tổ định nán lại ít ngày, còn Ly Chu và Ứng Long thấy mình chẳng giúp được gì nên muốn xin về Hiên Viên bẩm báo với Hoàng Đế về tình hình của Thanh Dương.
Trước khi giã biệt, Ứng Long còn tới gặp riêng Xương Ý để tạ tội, vừa nói được một câu đã quỳ xuống trước mặt Xương Ý, Xương Ý phải đỡ y dậy, Ứng Long nói: “Nhờ điện hạ chuyển lời cho Đại điện hạ, nếu không có Đại điện hạ, thần đã chết rũ xương từ lâu rồi, ngày sau nếu gặp việc gì thần có thể góp sức, xin lập tức báo cáo ngay với thần.”
Xương Ý vội vàng cảm tạ. Đợi Ứng Long đi khỏi, y liền kể lại chuyện này với A Hành, nàng nói: “Những bề tôi như thế trong triều chẳng phải chỉ có Ứng Long, có lẽ đây chính là lý do Thiếu Hạo muốn Đại ca sống, chỉ cần Đại ca còn đó, bọn họ nhất định sẽ không về phe Di Bành.”
Mười mấy ngày sau, A Hành, Xương Ý và Xương Phó cùng đưa Luy Tổ về Hiên Viên sơn. Vừa về đến Triêu Vân phong, họ chợt thấy Triêu Vân điện hằng ngày vắng vẻ hôm nay lại náo nhiệt bất ngờ.
Bước vào điện, cả bốn trông thấy Tam phi Đồng Ngư thị đang sai phái đám thị nữ tra xét khắp nơi, lúc thì chê chỗ này sơ sài, khi lại nói màu sắc chỗ nọ không hài hòa.
Chu Du luống cuống theo sau Đồng Ngư thị, tới một hốc tường, bà ta đột nhiên thò tay vào, cầm hộp ngọc vuông vắn trong hốc lên, “Cái giẻ rách gì thế này? Để đây vướng cả mắt!”
Chu Du nôn nóng, liền buột miệng la: “Đừng đụng vào!”
Đồng Ngư thị giận giữ quát: “Ngươi bảo ai đấy hả? Vả vào miệng cho ta!”
Hai ả cung nữ vạm vỡ nhanh như cắt túm lấy Chu Du, bắt đầu vả miệng. Chu Du chẳng dám phản kháng, chỉ biết vật nài: “Đại điện hạ đã căn dặn, không ai được đụng vào hộp ngọc đó.”
Đồng Ngư thị phá lên cười, “Thế hả?” Dứt lời, bà ta đập luôn chiếc hộp xuống đất vỡ tan, mấy mảnh xương người cháy xém vung vãi cả ra sàn.
Đồng Ngư thị cười nhạt, nghiến răng toan giẫm lên đó.
“Các ngươi làm gì ở đây vậy?”
Đồng Ngư thị nghe tiếng ngẩng lên, Luy Tổ bước vào cửa điện, trông thấy mấy mảnh xương dưới chân Đồng Ngư thị, sắc mặt chợt tái nhợt.
Xương Ý cố nén giận, hành lễ với Đồng Ngư thị, “Đó là xương cốt của gia huynh, xin nương nương cẩn thận giùm.”
Đồng Ngư thị làm bộ áy náy, “Ai da, ta không biết, thật là có lỗi.”
Nói rồi bà ta vội vã lùi lại, chẳng những tránh không được mà còn giẫm bừa lên đống xương cốt, khiến mấy mảnh xương vỡ vụn.
Bà ta liền hốt hoảng tạ lỗi: “Cái này, cái này… ai, thật thất lễ quá, ta đã bảo đừng ghé qua đây, nhưng Di Bành lập được công lớn, vừa được phong làm Đại tướng quân, Hoàng Đế thấy ta thích phong cảnh Triêu Vân phong nên mới gia ân cho ta đi dạo một vòng.” Bà ta nhặt mớ xương tàn dưới đất, hai tay dâng tới trước mặt Luy Tổ: “Tỷ tỷ, muội xin lỗi nhé.”
Luy Tổ xám mặt lại, loạng xoạng muốn ngất đi, Xương Phó phải vội vã chạy tới dìu đỡ.
Xương Ý tức giận đầy ruột nhưng miệng lưỡi vụng về, không sao đối đáp được với bà ta, chỉ biết giơ tay toan rút kiếm.
Thấy vậy, A Hành vội giữ tay y lại rồi bước chân trước mặt Luy Tổ, rút khăn lụa ra, thận trọng nhận lấy nắm xương tàn đã cháy sém.
Đồng Ngư thị liền cảm thán: “Ai! Tội nghiệp quá đi mất! Đường đường là một trang nam nhi cao lớn hiên ngang như rồng như hổ, thế mà giờ chỉ còn nắm xương tàn!”
A Hành mỉm cười đáp: “Phải rồi, nỗi khổ của chúng con chỉ có nương nương Người hiểu được thôi, nói gì thì nói, Tam ca cũng bị thiêu cháy thành tro bụi mà, ài.”
Đồng Ngư thị chợt biến sắc, tắt hẳn nụ cười, căm hận trừng mắt nhìn A Hành, nàng cũng cười cười nhìn bà ta, chẳng hề kém cạnh.
Ánh mắt Đồng Ngư thị trừng trừng nhìn Luy Tổ không rời, đoạn bà ra gằn giọng nói: “Trời cao đã nghe thấy lời nguyền của ta rồi, ngươi cứ chờ mà xem!”
Luy Tổ nghe nói tái mặt, ngất lịm đi. Đồng Ngư thị cũng dắt đám cung nhân lũ lượt rời Triêu Vân điện.
Sau khi tỉnh lại, Luy Tổ vật vã đau đớn như chết cả cõi lòng. A Hành mấy lần định hỏi han gì đó, nhưng cứ do dự không dám. Hộp ngọc đó đã đặt trong hốc tường cả mấy ngàn năm nay, vậy mà nàng chẳng hề lưu ý, đến giờ mới biết đó là xương cốt của anh trai mình.
Chu Du đầu bù tóc rối bưng một chiếc hộp thủy tinh lại, A Hành đặt nắm xương tàn gói trong mảnh khăn tay vào đó. Thấy mọi người đều làm thinh chẳng nói chẳng rằng, Chu Du liền an ủi: “Nương nương, điện hạ, vương cơ, các vị đừng giận làm gì, đợi Đại điện hạ khỏe lại, nhất định sẽ tính sổ với mụ đàn bà đó.”
Xương Ý và A Hành vừa nghe đã rơm rớm nước mắt, Đại ca hết lòng che chở cho họ, làm sao còn trở về được nữa đây? Đến giờ A Hành mới hiểu vì sao mỗi lần gặp mặt, Đại ca đều nghiêm khắc mắng nàng trễ nải tu hành, tiếc rằng, trước đây nàng chẳng hề nhận thấy nỗi khổ tâm của Đại ca.
Luy Tổ lệnh cho đám cung nữ vây quanh: “Các người lui cả ra đi, để cả nhà ta trò chuyện riêng một lát.” Chu Du nghe nói cũng định lui ra, lại nghe Luy Tổ bảo: “Ngươi ở lại đây. Về sau, ngươi… ngươi cũng coi như Xương Phó.”
“Dạ!” Chu Du vội ngồi xuống, cười lỏn lẻn cào cào lại mái tóc rối tung trên đầu. A Hành và Xương Ý đang xúc động nên chẳng để ý lời Luy Tổ, chỉ riêng Xương Phó đưa mắt chăm chú nhìn Chu Du.
Luy Tổ quay sang bảo A Hành: “Đưa cho ta chiếc hộp.”
A Hành liền đưa chiếc hộp cho bà. Luy Tổ mở ra, khẽ vuốt nắm xương tàn, đoạn lên tiếng, “Hẳn con đang thắc mắc người này là ai, tại sao y lại thành ra thế này, phải không? Chuyện này dài lắm, phải kể từ đầu kia.”
Xương Ý vội chen vào: “Mẹ mệt rồi, để hôm khác nói đi!”
“Con cũng yên lặng nghe đi, con chỉ biết đây là Vân Trạch, chứ không biết nguồn cơn sự việc phải không?”
Thấy thái độ Luy Tổ rất kiên quyết, Xương Ý đành vâng lời.
Luy Tổ trầm ngâm giây lát rồi kể: “Đó là chuyện rất lâu rất lâu rồi, lâu đến nỗi ta cũng gần như quên mất. Khí đó cha ta vẫn còn tại thế. Tây Lăng Thị là danh gia vọng tộc từ thời thượng cổ, cùng với ba nhà Xích Thủy, Đồ Sơn, Quỷ Phương, được người đại hoang tôn là ‘Tứ thế gia’, thực lực ngang ngửa Xích Thủy Thị. Xưa kia dòng họ nhà ta từng có một vị Viêm Hậu, Phục Hy đại đế cũng rất nể trọng chúng ta. Từ nhỏ, ta đã giỏi điều khiển côn trùng, biết quay xe kéo sợi dệt nên những tấm gấm đoạn rực rỡ tươi đẹp hơn mây trắng, có một dạo ta cũng nổi danh thiên hạ, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, người tới cầu hôn nườm nượp. Hồi đó ta vừa kiêu ngạo vừa phóng khoáng, mắt đặt đỉnh đầu, nào xem ai vào đâu, bèn chuồn khỏi nhà, đi ngao du sơn thủy cùng hai người bạn. Chúng ta kết bái huynh muội, uống rượu, đánh lộn, gây sự phá phách, hành hiệp trượng nghĩa đủ cả.”
Nhìn ánh mắt mẹ rực lên, vẻ hào hứng phấn khởi chưa từng thấy, Xương Ý chợt nhận ra mẹ mình cũng từng có một thời tuổi trẻ sôi nổi nhiệt thành. A Hành sực nhớ lại mấy trăm năm trước, ông lão trên Tiêu Nguyệt đỉnh hồi tưởng chuyện xưa, cũng đã cười sảng khoái thế này.
“Một hôm, ba người chúng ta ngang qua Hiên Viên, bắt gặp một vị thiếu niên anh tuấn, y đứng giữa mọi người, tươi cười rạng rỡ, hệt vầng dương chói lóa trên bầu trời kia, khiến vạn vật xung quanh đều hóa ra ảm đạm.”
Xương Phó khẽ hỏi: “Là phụ vương ư?”
Luy Tổ gật đầu, ánh mắt đượm vẻ thê lương, “Từ nhỏ ta đã được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, cứ ngỡ gã thiếu niên này cũng như muôn vàn kẻ khác, hễ trông thấy ta đều phải đắm đuối si mê. Nhân một đêm trăng, ta bèn lẻn đi tìm y bày tỏ tình cảm, nào ngờ y lại cự tuyệt ta, còn nói rằng đã có người trong mộng rồi. Nghe vậy ta chỉ biết hổ thẹn giận dữ bỏ đi, tiếp tục ngao du với chúng bạn, làm ra vẻ chưa có gì xảy ra. Nhưng lúc nào ta cũng canh cánh nhớ đến y, càng không có được thì lại càng sục sôi muốn giành lấy. Có lần ngắm nhìn hoàng hôn từ từ buông xuống, ta đột ngột hạ quyết tâm, nhất định phải giành được người đàn ông này! Tây Lăng Luy ta lý nào lại không giành được kẻ mà ta muốn chứ? Nghĩ thế, ta bèn rời bỏ chúng bạn, đi tìm gã thiếu niên kia.”
Luy Tổ đưa mắt nhìn khắp lượt các con, “Thuở ấy, Tây Lăng Luy ta nào đã nhận ra thứ quý giá nhất trong đời, càng chưa biết rằng điều đáng trân trọng nhất chính là điều mình vừa tiện tay vứt bỏ.”
Xương Ý, Xương Phó, A Hành đều lặng thinh không nói, chỉ mình Chu Du tâm tính chất phác, chẳng ngại háo hức vọt miệng hỏi: “Về sau thế nào? Làm sao vương hậu đánh bại được tình địch?”
Luy Tổ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn kể tiếp: “Tìm thấy gã thiếu niên đó, ta bèn lấy tư cách là bạn y để nán lại Hiên Viên tộc. Ta hiểu y là một kẻ ôm hoài bão lớn, không cam lòng làm tộc trưởng một Thần tộc nhược tiểu suốt đời, bèn dốc hết sức lực giúp y hoàn thành khát vọng. Dù gì ta cũng xuất thân từ danh gia vọng tộc, lại được nuôi dạy như Viêm Hậu tương lai, nắm rõ quy cách phân bố ruộng nương, thiết lập thuế khóa, quản lý nô bộc, còn dạy cho đàn bà con gái Hiên Viên chăn tằm dệt vải, phân tích hình thế thiên hạ với y, nói Viêm Đế và Tuấn Đế càng đấu đá ác liệt thì cơ hội của y càng lớn… Chỉ cần y muốn thực hiện, ta sẽ một lòng một dạ giúp đỡ y, ta không tin rằng, cô gái mà y tơ tưởng có thể đem lại cho y những điều đó. Ngày tháng trôi qua, chúng ta mỗi lúc một thêm thân mật, cơ hồ chuyện gì cũng có thể thổ lộ cùng nhau, cho đến một hôm, y đột nhiên căn vặn thân thế của ta, một cô gái bình thường chẳng thể nào học sâu hiểu rộng nhường ấy được, khi biết ta là Tây Lăng Luy, y đã kinh ngạc không thốt nên lời.”
Luy Tổ nghiêng đầu hồi tưởng chuyện xưa, nét tươi cười hiếm hoi thoáng lướt qua dung nhan tàn tạ, “Thuở ấy, cái tên Tây Lăng Luy nổi tiếng hệt như Thiếu Hạo và Thanh Dương bây giờ vậy, người ta có thể không biết Viêm Đế, nhưng chẳng ai không nghe tiếng Tây Lăng Luy. Hiên Viên tộc khi đó đang cần một chỗ dựa, ta lập tức đáp ứng ngay. Trước ngày hai ta thành thân, cô gái đó đã tới cầu khẩn ta, còn nói với ta rằng, cô ta… cô ta đã mang thai.”
Vẻ mặt Luy Tổ đầy xót xa hoảng hốt, thoắt chốc, mọi người trong phòng đều nín lặng như tờ.
“Cô ta khóc lóc vật nài ta đừng giành mất phu quân của mình, đừng đoạt đi cha của đứa nhỏ, còn nói, ‘Tiểu thư thân là Tây Lăng Luy, có biết bao đàn ông trên đời si mê theo đuổi, nhưng tôi chỉ có một mình y mà thôi, xin tiểu thư trả lại y cho tôi đi.’ Nhưng dù trên đời có bao nhiêu đàn ông, ta cũng chỉ muốn gả cho một mình y, nên dứt khoát cự tuyệt cô ta. Cô ta khóc lóc van nài ta thương lấy đứa bé trong bụng mà thu nhận cô ta làm tiểu thiếp, bằng không người nhà cô ta sẽ giết cả cô ta lẫn đứa bé, nhưng ta vẫn cự tuyệt. Ta là Tây Lăng Luy kia mà! Nếu vừa thành hôn chưa bao lâu, phu quân đã có con với kẻ khác thì ta còn mặt mũi nào nữa? Cha ta và toàn thể gia tộc còn mặt mũi nào nữa đây! Cha ta miễn cưỡng lắm mới chịu chấp nhận cuộc hôn nhân này, nếu Người biết chuyện đó, ắt sẽ hủy hôn là cái chắc. Nghĩ vậy ta liền đuổi cô gái đó đi, coi tất cả như một cơn ác mộng, cố giữ vẻ bình thường để cử hành hôn lễ. Nhưng sau lễ thành hôn, cô ta lại tìm tới gặp ta, chặn xe ta giữa đường, loạng choạng nâng tấm vải đẫm máu bước đến trước mặt ta, trên đó còn dính mấy khối thịt đã khô quắt, căm hận nguyền rủa: ‘Ta lấy máu thịt con ta ra thề rằng các con ngươi sẽ chết sạch không còn một mống, còn ngươi sẽ phải đau đớn cực cùng vì mất con.’”
Nghe đến đây, Xương Ý và A Hành đã đoán ra người đàn bà đó là ai, không hẹn mà cùng ớn lạnh xương sống. Thấy sắc mặt Luy Tổ tái mét, Xương Phó vội dịu giọng khuyên giải, “Mẫu hậu mệt rồi, Người nghỉ một lát đi.”
Luy Tổ lắc đầu, tiếp tục kể, “Nói xong câu đó, cô ta liền bỏ đi.”
Mấy trăm năm sau, ta cũng dần quên khuấy cô ta. Phụ vương các con và ta ngọt bùi ân ái, rời tọa kỵ là vợ chồng, lên tọa kỵ là chiến hữu, hai người đồng tâm hiệp lực, sánh vai tác chiến, qua bao phen chinh chiến, Tây Lăng tộc ra sức chiến đấu vì ta, tử thương ngày càng nhiều rồi mai một dần đi, trong khi đó Hiên Viên tộc mỗi lúc một thêm lớn mạnh, từ một Thần tộc vô danh tiểu tốt đã trở thành Thần tộc lớn, vang danh đại hoang. Ta sinh được hai đứa con trai, đặt tên là Thanh Dương và Vân Trạch. Vân Trạch rất hiểu chuyện, nó thấy Thanh Dương tính tình hào phóng, không thích cầm quân đánh giặc bèn chủ động gánh lấy mọi trách nhiệm thay huynh trưởng, ngày ngày đều theo phụ vương học hỏi.”
Thấy Luy Tổ đã mệt lử, Chu Du liền bưng trà lại, bà đón lấy chung trà hớp mấy ngụm, nghĩ một lát rồi kể tiếp: “Hiên Viên tộc ngày càng lớn mạnh, cũng chuẩn bị lập quốc tôn vương, phụ vương các con muốn nạp con gái tộc trưởng Phương Lôi tộc làm phi tử, bèn ướm hỏi ta, ông ấy cần sự hỗ trợ từ Phương Lôi tộc để lập quốc nên mong ta thông cảm cho. Trước lý lẽ đó, ta chẳng có cách nào phản đối, cũng không làm sao phản đối được. Vì chuyện này, Thanh Dương đã làm ầm lên với ta, còn đòi đi tìm phụ vương các con tranh luận, Vân Trạch từ nhỏ đã học cách xử lý chính sự, hiểu chuyện hơn Thanh Dương rất nhiều, nó phải can ngăn mãi Thanh Dương mới chịu thôi.
May sao phụ vương các con cũng chỉ khách sáo qua quýt với Phương Lôi thị chứ chẳng hề sủng ái, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu sau, ta lại có mang rồi mải mê với hạnh phúc làm mẹ, cho tới một ngày, Hoàng Đế dắt một phụ nữ đang mang thai tới gặp ta, nói muốn nạp cô ta làm phi, cô gái đó nhìn ta cười bẽn lẽn, còn ta sởn cả gai ốc, cô ta, cô ta… chính là thiếu nữ hơn ngàn năm trước từng tìm tới cầu khẩn ta, nguyền rủa ta, cũng chính là Đồng Ngư thị vừa rời khỏi Triêu Vân phong khi nãy.”
Chu Du “A” lên kinh ngạc, Xương Ý và A Hành tuy đã đoán được nhưng vẫn thấy lạnh toát sống lưng.
Luy Tổ lại nói: “Hai năm sau, Tam vương tử Hiên Viên Huy của Hiên Viên tộc chào đời, tuy nó không phải con đầu lòng của Hoàng Đế, nhưng lại là vương tử đầu tiên ra đời từ ngày lập quốc của Hiên Viên, Hoàng Đế hết sức phấn khởi, lệnh cho toàn quốc ăn mừng. Hồi đó ta vẫn chưa nghĩ thông, chưa hiểu ra thứ gì là quan trọng nhất nên vì chuyện này mà động thai khí, khiến Xương Ý phải sinh non. Từ nhỏ Xương Ý đã yếu ớt lắm bệnh, linh lực kém cỏi, đều là do lỗi của ta!”
Hồi tưởng lại hình ảnh mẹ mình vò võ lẻ loi giữa Triêu Vân điện lạnh lẽo, trong khi cả nước đang hân hoan đón mừng Tam vương tử chào đời, Xương Ý chợt thấy lòng chua xót: “Mẹ, đó đâu phải lỗi của Người, Người đừng tự trách nữa mà.”
Luy Tổ tiếp lời: “Hồi đó ta vừa ghen ghét, vừa không cam lòng, lại vừa hoang mang sợ hãi, luôn xúi giục Vân Trạch gắng sức lấy lòng Hoàng Đế. Thật ra Vân Trạch hiểu chuyện hơn ta, nó thường khuyên ta trên đời này, thứ khó tranh đoạt nhất chính là lòng dạ đàn ông, dù tranh được chăng nữa, cũng sẽ phải trả giá đắt, nhưng ta một mực không chịu hiểu, càng chẳng làm sao quên được những ân ái vờ vịt hơn ngàn năm qua, về sau…” Luy Tổ ngửa mặt trông lên trần nhà, mọi người ngồi đó đều không nhìn thấy nét mặt bà, nhưng vẫn thấy hai hàng nước mắt từ cằm nhỏ xuống.
“Về sau Hiên Viên giao chiến với Điền tộc ở Tây Nam, phụ vương các con vốn định phái Thanh Dương xuất chinh, nhưng Vân Trạch biết Thanh Dương chán ghét chuyện đó, bèn chủ động xin đi, Hiên Viên Huy cũng được cho đi theo Vân Trạch để rèn luyện. Vân Trạch đại thắng, buộc Điền Vương đầu hàng. Đất Điền rất nhiều núi lửa, Hiên Viên Huy nói Vân Trạch trong lúc dẫn quân phá vây không may rơi vào miệng núi lửa. Thanh Dương không tin, nó tìm được xương cốt Vân Trạch, kết luận Hiên Viên Huy đã hại chết Vân Trạch, đòi Hoàng Đế tra xét. Hoàng Đế liền phái rất đông binh lính tới trấn giữ Chi Nguyệt điện, cấm Thanh Dương tiếp cận Hiên Viên Huy nhưng Thanh Dương vẫn liều mạng xông vào Chi Nguyệt điện, còn đả thương Hiên Viên Huy. Hoàng Đế tức giận bèn hạ lệnh giam Thanh Dương vào Lưu Sa trận không có lấy một giọt nước suốt nửa năm, tới khi nó chịu nhận tội mới thôi. Lúc rời khỏi trận, Thanh Dương chỉ còn da bọc xương, trông chẳng ra hình người nữa.”
Nói đến đây, Luy Tổ nghẹn giọng, khóc không ra tiếng.
Xương Ý đỡ lời: “Thôi mẹ ơi, chuyện về sau cứ để con thuật nốt cho A Hành. Sau khi được thả khỏi Lưu Sa trận, tính tình Đại ca thay đổi hoàn toàn, cũng chẳng ngao du đây đó nữa mà trở về Hiên Viên quốc, trở thành Hiên Viên Thanh Dương quy củ bây giờ. Từ đó về sau, Đại ca càng lúc càng nổi tiếng, sau cùng tề danh với Cao Tân Thiếu Hạo lừng lẫy đã lâu, được người trên đại hoang xưng tụng là “Thiên hạ song hùng, Bắc Thanh Dương, Nam Thiếu Hạo.”
Luy Tổ lại lên tiếng: “Vân Trạch chết đi, ta mới thật sự nhìn rõ con người mà mình quyến luyến bao năm không sao buông xuống được, ta cũng tháo sạch lược vàng trâm ngọc, bỏ hết gấm vóc lụa là, chỉ muốn làm một người mẹ, bảo vệ cho con cái mình bình yên hạnh phúc mà thôi. Nhưng dường như ông trời không chịu cho ta cơ hội, có lẽ, khi ta nhẫn tâm khước từ, để mặc đứa nhỏ kia chết mà chẳng được thấy ánh mặt trời, hết thảy báo ứng đã được định sẵn cả rồi. Nhưng đó là do ta gây ra kia mà! Trăm sai ngàn sai đều tại ta cả, sao báo ứng lại đổ lên đầu các con ta…”
Luy Tổ khóc nức lên, điên dại vì đau đớn.
Xương Ý vội nắm chặt lấy hai tay Luy Tổ, truyền linh lực vào người bà, khiến Luy Tổ thiếp đi.
Chu Du bất mãn buột miệng: “Đồng Ngư nương nương thật quá đáng, nếu nô tỳ là bà ấy, người đáng hận nhất phải là Hoàng Đế mới đúng, chính Hoàng Đế phụ bạc cả hai người đàn bà kia mà! Để tranh đoạt thiên hạ, Hoàng Đế đã ruồng rẫy thanh mai trúc mã, đến khi giành được giang sơn rồi lại đổ tội cho vương hậu khiến mình mất người yêu và con trai…”
Xương Phó giật giật áo Chu Du, tỏ ý ngăn ả đừng nói nữa, dù sao Xương Ý và A Hành cũng là con Hoàng Đế sinh ra, những thị phi phải trái, ân oán giăng mắc kia đều đã thành quá khứ rồi.
Xương Ý nhờ Xương Phó và Chu Du dìu Luy Tổ vào tẩm điện nghỉ ngơi.
Xương Ý lo lắng hỏi A Hành: “Bây giờ mẹ đã loạn cả tâm thần rồi, nếu Đồng Ngư thị còn sinh sự dăm lần nữa, e rằng mẹ sẽ sụp đổ hoàn toàn luôn. Chúng ta làm sao đây?”
A Hành bưng hộp lên, chăm chú nhìn nắm xương tàn bên trong, không sao tin nổi một con người đang sống sờ sờ nay chỉ còn vài mảnh xương cháy sém, buột miệng: “Nhị ca trông thế nào?”
Hai mắt Xương Ý chợt đỏ hoe, “Trong ký ức của ta, Nhị ca cũng bận rộn hệt như Đại ca mà muội từng biết vậy, chẳng mấy khi ta gặp được huynh ấy. Nhị ca theo Đại ca đi chọn đất phong cho ta, thấy Nhược Thủy hoang vu hẻo lánh, dân chúng còn man di, ai cũng chê là chó ăn đá gà ăn sỏi, chẳng kẻ nào thèm chọn, Nhị ca bèn bảo ta dâng thư, xin ban phong Nhược Thủy. Nếu không phải Nhị ca thu xếp cho ta một nơi hẻo lánh xa xôi như thế, e rằng ta cũng đã…”
A Hành đầy vẻ ân hận, xót xa hỏi: “Sao huynh chẳng kể cho muội nghe về Nhị ca? Thế mà có lúc muội đã trách cứ Đại ca về cái chết của Hiên Viên Huy…”
Xương Ý rưng rưng nước mắt: “Đại ca không để bụng chuyện đó đâu.” Đã có lúc y sôi sục căm hờn, chỉ lăm le giết chết Di Bành ngay tức khắc, nhưng giờ đây, thấy hệt mọi tiền nhân hậu quả, bao oán hận trong lòng y đều nhường chỗ cho bi ai khôn xiết, “Ta định dâng thư lên phụ vương, xin đưa mẹ về Nhược Thủy phụng dưỡng, Đồng Ngư thị thèm muốn Triêu Vân điện thì chứ cho bà ta đi!”
A Hành lắc đầu, “Nhược Thủy chẳng phải vẫn là lãnh thổ Hiên Viên ư? Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, có tác dụng gì đâu? Nếu Đồng Ngư thị dời vào ở Triêu Vân điện, dù chúng ta trốn đến chân trời góc bể cũng vô ích.”
“Nhất định phải có một bên chết mới kết thúc được sao? Tuy Đồng Ngư thị đáng hận, nhưng cũng rất đáng thương.”
“Muội cũng thấy bà ta đáng thương, nhưng dây dưa giằng co thế này mãi chẳng tháo gỡ được, còn liên lụy cả người thân thây chất thành núi. Bây giờ chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa hết, chỉ có người chết ta sống mới kết thúc được thôi.”
Thấy Xương Ý nín lặng, A Hành lo y lòng dạ thiện lương, dễ bị hãm hại, liền đinh ninh dặn dò: “Tứ ca, sớm muộn Di Bành cũng sẽ động tới huynh, huynh nhất định phải cẩn thận đề phòng đó.”
Vú già từng chứng kiến hai người lớn lên bưng một đĩa dâu lạnh bước vào, cười nói: “Tiếc là Đại điện hạ vắng nhà nên chẳng có dâu tươi ướp lạnh, chắc không được ngon lắm, hai vị cố ăn chút đi.”
Xương Ý và A Hành nhón một chùm dâu lạnh đưa lên miệng, trái dâu chua chua ngòn ngọt mà sao giờ đây chỉ thấy đắng chát nghẹn lòng. Bây giờ hai người mới chợt nhận ra, bao năm nay, hễ Đại ca ở nhà, mỗi lần trở về Hiên Viên sơn, bất kể lúc nào, họ đều được nếm dâu lạnh tươi roi rói.
Để ướp lạnh mấy chùm dâu tươi, Thanh Dương không tiếc hao phí linh lực khiến cả Hiên Viên sơn đổ tuyết, tiếc rằng tình cảm ấm áp quan hoài ẩn sau vẻ bề ngoài lạnh lùng nghiêm khắc ấy, hại người bọn họ chẳng hề nhận ra.
Xương Ý chăm chú nhìn A Hành, rành rọt nói: “Tuy cái chết của Đại ca chẳng phải do một mình Xi Vưu gây ra, nhưng không thể phủ nhận chính tay hắn đã đánh chết Đại ca, mẹ nhất định không chấp thuận cho muội ở bên hắn đâu!”
A Hành rơm rớm nước mắt, “Thế còn huynh? Huynh từng nói sẽ chúc phúc bọn muội kia mà?”
Xương Ý nuốt cay đắng vào lòng, đứng phắt dậy, vừa sải bước ra ngoài vừa trầm giọng đáp: “Ta sẽ không đi tìm hắn báo thù, nhưng ta cũng không thể chúc phúc cho kẻ giết chết Đại ca được. Nếu Xi Vưu chết đi, chuyện này coi như xong, nhưng nếu hắn còn sống, đời này kiếp này, ta cũng không muốn nhìn thấy mặt hắn, muội muốn sống cùng hắn thì vĩnh viễn đừng tới gặp ta nữa!”
A Hành siết chặt chùm dâu lạnh trong tay, nước mắt ầng ậng chỉ chực rơi xuống, nhưng giờ đây mẹ nàng đang bệnh nặng, Tứ ca hiền lành lương thiện, nàng chẳng thể muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười như xưa nữa.
Nàng nghiến chặt răng, cố nén không rơi nước mắt, chùm dâu lạnh trong tay bị bóp nát bét, nước dâu đỏ lòm từ kẽ tay nhỏ xuống tong tong như máu.
Nuốt hết nước mắt vào lòng, A Hành đứng dậy, tới thăm mẫu hậu.
Trong tẩm điện, mẫu hậu nàng đang thiêm thiếp, Xương Phó và Chu Du ngồi cạnh trông nom, đầu tóc Chu Du vẫn bù xù chưa kịp chải gỡ lại, A Hành bước vào lên tiếng: “Hai người đi nghỉ đi, để muội trông mẹ.”
“Cũng được, có chuyện gì muội kêu bọn ta nhé.” Xương Phó kéo Chu Du ra khỏi điện, ngồi dưới gốc phượng hoàng, rút chiếc lược bằng gỗ nhược mộc vừa chải tóc cho Chu Du, vừa thủ thỉ:
“Ngươi theo Đại ca bao lâu rồi?”
“Nô tỳ không nhớ nữa, chỉ biết là lâu lắm rồi, lâu hơn cả ký ức của nô tỳ nữa.”
“Sao lại lâu hơn cả ký ức?”
“Có lần nô tỳ thấy một nữ tử Nhân tộc toan treo cổ tự tử để chết theo chồng, nô tỳ nghĩ mãi mà không sao hiểu được, Thiếu Hạo bèn trêu nô tỳ là gỗ đá, đương nhiên không hiểu nổi tình cảm thương tâm đau lòng, nô tỳ nhất mực bám theo căn vặn y, y mới tiết lộ nô tỳ vốn là một cây thù du mục nát, sắp chết khô đến nơi, nhân một lần Thiếu Hạo cùng Đại điện hạ nô đùa, điện hạ bèn nhét khúc cây khô vào ngực áo, giữ bên người hàng ngày, nhờ linh khí của Đại điện hạ, nô tỳ mới có được linh thức, về sau mới tu thành hình người, vậy chẳng phải trước khi nô tỳ có ý thức đã theo Đại điện hạ rồi sao?”
“Ngươi đã gặp Nhị ca Vân Trạch lần nào chưa?”
“Nô tỳ chưa, nhưng nô tỳ biết Nhị điện hạ. Hồi đó nô tỳ còn là một khúc gỗ, không biết nói năng, chỉ có thể lắng nghe âm thanh bên ngoài, nô tỳ đã lắng nghe Nhị điện hạ từ từ trưởng thành, lại lắng nghe… lắng nghe ngài ấy qua đời. Nô tỳ ở trong lòng Đại điện hạ, cảm nhận được hết thảy đau đớn của ngài, nô tỳ rất muốn an ủi ngài, nhưng không thể cử động, cũng chẳng biết nói năng. Sau đó, sau đó… nô tỳ quá nóng ruột, đột nhiên, một hôm nô tỳ biến thành hình người. Bấy giờ Đại điện hạ đang ngủ, thấy nô tỳ thình lình xuất hiện trên giường, điện hạ giật nảy cả mình, ngã lộn cổ xuống đất, mặt tái xanh tái xám, quả là nhát gan mà…” Chu Du cười phá lên.
Tổ tiên Nhược Thủy tộc chính là Thần tộc Nhược Mộc nên Xương Phó khá am hiểu chuyện mộc yêu hóa thành người, nàng ngập ngừng hỏi, “Lúc đó ngươi không mặc gì, phải không?”
“Ơ… sau đó điện hạ cho nô tỳ mượn y phục của mình mặc tạm.”
Nhìn Chu Du ngây thơ chất phác, Xương Phó đành nuốt câu, “Đại ca lộn cổ xuống đất đâu phải vì sợ” lại, hình dung cảnh Đại ca lạnh lùng nghiêm nghị “giật nảy cả mình”, nàng không khỏi tức cười, nhưng chưa kịp cười đã nghe chua xót ngập lòng, “Từ đó về sau ngươi đi theo Đại ca ư?”
Chu Du bĩu môi ủ rũ, “Ai da! Tuy nô tỳ có thể cười nói cử động nhưng lại ngốc nghếch khù khờ, làm điện hạ bực mình, mấy lần định tống nô tỳ đi rồi đấy.”
“Vậy sao ngươi vẫn ở lại được? Một khi Đại ca đã quyết, đâu dễ gì lay chuyển.”
“Nô tỳ cũng không biết nữa, hồi đó linh lực của nô tỳ rất bất ổn, hễ cuống lên là biến lại nguyên hình, mỗi lần bị điện hạ xua đuổi, nô tỳ đều biến thành khúc gỗ. Điện hạ nổi giận cảnh cáo nô tỳ, nếu còn tiếp tục biến thành gỗ nữa sẽ quăng nô tỳ vào lò lửa luôn. Để làm vừa lòng điện hạ, không chọc giận ngài, cũng không biến thành gỗ nữa, nô tỳ đành dốc hết sức cố gắng tu hành, chỉ nửa người biến thành gỗ thôi, nào ngờ điện hạ vẫn nổi giận đùng đùng, còn giận hơn cả lần trước, điện hạ nói, thà toàn thân ngươi biến quách thành gỗ cho rồi…”
A Hành mải nghe hai người trò chuyện đã bước tới bên song khi nào chẳng rõ, nàng chỉ mong Chu Du kể tiếp vài ba chuyện nữa để mình được hiểu thêm về Đại ca, vị Đại ca luôn đứng đằng sau che chở cho nàng mà nàng chưa bao giờ hiểu rõ.
Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?
Từ sau cái chết của Băng Nguyệt, Nặc Nại chỉ ôm lấy vò rượu, say sưa tối ngày.
Tin Viêm Đế Du Võng chết thảm truyền đến Cao Tân, khiến y đột nhiên sực tỉnh, vội vàng đi suốt ngày đêm tới Thần Nông, nhưng đến chân núi thì đụng phải lệnh giới nghiêm, lại không tiện bộc lộ thân phận tới gặp Vân Tang, đương lúc bối rối như kiến bò miệng chén, y sực nhớ năm xưa mình âm thầm hẹn gặp Xi Vưu, hắn đã dặn y chờ tại Thảo An lĩnh, về sau y mới biết Thảo An lĩnh là cấm địa của Thần Nông, không ai được lui tới, nên cũng chẳng có thị vệ trông giữ.
Nặc Nại đoán từ Thảo An lĩnh có thể tìm được đường lên Tiểu Nguyệt đỉnh, bèn lẻn vào Thảo An lĩnh.
Thấy căn nhà tranh trên đỉnh núi vẫn leo lét ánh đèn, Nặc Nại mừng rỡ tiến lại, ghé mắt qua nhìn song cửa, chỉ thấy Mộc Cận mình khoác áo tang, tay giơ một viên dạ minh châu Đông hải, vừa đi vừa soi khắp các ngóc ngách trong nhà, khẽ khàng vuốt ve hết bàn tới giường, đôi mắt ăp ắp tình nồng, lệ tràn giàn giụa.
Mộc Cận ngồi xuống giường, cầm manh áo cũ của Xi Vưu áp lên mặt rồi òa khóc, “Xi Vưu, rốt cuộc ngươi còn sống hay đã chết? Tại sao ta phái người tìm kiếm khắp đại hoang mà không thấy? Dù ngươi chết rồi, cũng để ta trông thấy nắm xương tàn của ngươi chứ.”
Nghe vậy Nặc Nại thấy lòng chùng hẳn xuống. Theo y được biết cả Thần Nông, Hiên Viên, thậm chí là Cao Tân đều đang tìm kiếm Xi Vưu, nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. E rằng hắn đã chết thật rồi, liệu nắm xương tàn lạnh lẽo của hắn có cảm nhận được những giọt lệ nóng hổi của Mộc Cận không nhỉ?
Nặc Nại đứng bên ngoài một lúc lâu mà Mộc Cận vẫn ôm lấy tấm áo Xi Vưu nức nở, y bèn gõ nhẹ vào song cửa, khẽ an ủi: “Người chết rồi là hết, chỉ còn người sống đau khổ mà thôi.”
Mộc Cận giật mình ngẩng phắt lên trông thấy Nặc Nại, mày liễu dựng ngược mắng, “Giống bội bạc kia còn dám bén mảng đến Thần Nông sơn ư? Để ta giết ngươi trút giận thay Vân Tang tỷ tỷ!” Dứt lời, một dải lụa rực rỡ như mây ráng bay vèo ra cửa sổ thít lấy cổ Nặc Nại, nhưng y vẫn đứng yên, sắc mặt dần sạm lại.
Thấy Nặc Nại sắp nghẹt thở ngất lịm, Mộc Cận liền vung tay thu lại dải lụa, hậm hực hỏi: “Sao ngươi không đánh trả? Lẽ nào ngươi đến chịu chết thật đấy à? Thế thì đi mà tìm Vân Tang tỷ tỷ, ngươi phụ bạc tỷ ấy, chứ đâu có phụ bạc ta!”
Nặc Nại vội hành lễ, “Xin vương cơ tìm cách giúp tôi gặp được Vân Tang, sống chết gì tùy Vân Tang xử trí.”
“Ngươi vội gì chứ, bây giờ Vân Tang tỷ tỷ không còn hơi sức màng tới ngươi đâu!”
Nặc Nại lặng thinh không nói, chỉ ngước mắt nhìn Mộc Cận đầy vẻ khẩn cầu, ánh mắt chan chứa bi thương dằng dặc, tha thiết hơn vạn lời nài nỉ.
Mộc Cận trừng mắt lườm Nặc Nại, “Ta đưa ngươi đi một chuyến vậy.” Trước mặt nàng, Vân Tang luôn kiên cường mạnh mẽ, chưa bao giờ lộ vẻ mềm yếu, nhưng nàng hiểu trong lòng Vân Tang rất đau khổ có lẽ gã bạc tình này sẽ an ủi được Vân Tang chút nào chăng.
Trên Tiểu Nguyệt đỉnh, chỉ có tiếng gió đêm lùa qua rừng cây xao xác, như nức nở oán than.
Trong căn nhà tranh, mấy khúc ảnh mộc[2] rộ hoa đu đưa trên xà, tỏa ra ánh sáng âm u lạnh lẽo, hệt như cả bầu trời sao đang tụ về, soi sáng cỗ quan tài đặt giữa nhà, trong quan tài là một thi thể vận y phục đế vương hóa quý, nhưng không có đầu.
[2] Ảnh mộc. Theo Thập Di ký, đây là một lại cây, ban ngày một phiến lá có tới trăm chiếc bông, tối đến, hoa lại có thể phát quang, sáng như sao trời.
Vân Tang cài thoa gai, vận tang phục, ngồi quỳ trên chiếu, đang mải mê đẽo gọt một bức tượng bằng kiến mộc[3], vừa phác xong dung mạo, trông đã rất giống Du Võng.
[3] Kiến mộc: được tôn xưng là cây thần trong truyền thuyết, có thể nối thông giữa trời và đất, người và thần. Tương truyền Phục Hy, Hoàng Đế v.v… đều đi đi lại lại giữa thiên đình và nhân gian bằng chiếc thang kỳ diệu này.
Nghe tiếng chân, nàng ngừng tay khắc, trông ra cửa.
Mộc Cận dắt theo một nam tử, lẳng lặng tiến lại, nam tử kia thân hình gầy gò, nét mặt bi ai, nhưng chẳng giấu được vẻ sáng sủa tuấn tú, chính là Nặc Nại, người từng có hôn ước với Vân Tang.
Mộc Cận quay sang Nặc Nại nói nhỏ: “Vân Tang tỷ tỷ ở trong đó, ta đợi ngoài này, nếu có người tới, ta sẽ cao giọng chào hỏi, ngươi nhớ trốn ngay đi đấy.”
“Đa tạ Tứ vương cơ.”
Nặc Nại vừa ngẩng đầu đối diện với ánh mắt Vân Tang, vừa bước vào phòng, bao lời muốn nói đã ra tới đầu lưỡi, nhưng không sao thốt nổi thành câu.
Trái lại, Vân Tang chẳng hề bất ngờ trước sự xuất hiện của y, chỉ mỉm cười gật đầu, “Mời ngồi.”
Nặc Nại gập gối quỳ xuống, Vân Tang chăm chú nhìn bức tượng đang khắc, cất tiếng, “Chàng tới đúng lúc lắm, thiếp loay hoay mãi chưa khắc được mắt và mũi, chàng khéo tay như vậy, khắc giùm thiếp được không?”
Nặc Nại cầm lấy dao toan khắc, chợt phát hiện ra trải qua bao ngày đắm chìm trong rượu, tay y đã bắt đầu run, chẳng còn trầm ổn vững vàng như xưa được nữa. Càng căng thẳng muốn làm cho tốt, cánh tay y càng run lên dữ dội.
Đương lúc Nặc Nại bẽ bàng hổ thẹn khôn xiết, Vân Tang bỗng đưa tay nắm chặt lấy tay y, chẳng rõ nhờ nguồn linh lực dồi dào nàng truyền cho, hay nhờ bàn tay dịu dàng kiên định của nàng mà cánh tay y dần thôi run rẩy, chiếc mũi và đôi mắt là phần khó khắc nhất, vậy mà hai người cùng làm lại điêu khắc rất sống động, như thể Du Võng tái sinh, chăm chú nhìn bọn họ vậy.
Nặc Nại đưa mắt nhìn Vân Tang, đầy day dứt, “Vân Tang…”
“Đừng say sưa nữa.” Vân Tang dịu dàng nhìn y, ánh mắt thấu hiểu và khoan dung, chẳng bợn một tia oán trách.
Nặc Nại chợt thấy mũi cay cay, “Ừ!”
Vân Tang khẽ cười, “Thiếp hiểu lòng chàng mà, tình hình Thần Nông hiện giờ không tiện giữ khách lại, chàng về đi thôi!”
“Thế còn nàng? Nàng định thế nào?”
“Thiếp ư? Thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, Thần Nông quốc ở đâu, thiếp ở đó.” Đôi vai Vân Tang gầy guộc mỏng manh, nhưng giọng điệu lại vô cùng kiên quyết.
Nặc Nại liền nắm chặt lấy tay nàng, “Theo ta đi! Nàng còn nhớ bóng nước dưới Ao Đột quán không? Ta không làm Nạc Nại, nàng cũng đừng làm Vân Tang nữa, hai ta không cần thân phận, địa vị, không cần gì hết, chỉ sống đúng với bản thân mình thôi được không? Thiên hạ rộng lớn, thế nào cũng có nơi dành cho hai chúng ta!”
Vân Tang đăm đăm nhìn Nặc Nại, lệ dâng lên trong mắt, hồi lâu mới đáp: “Nghe tin Băng Nguyệt treo cổ tự tử giữa cổng thành, thiếp đã biết Nặc Nại Đại tướng quân của Cao Tân Hy Hòa bộ chẳng thể nào kết hôn với một vương cơ dị tộc như thiếp được nữa! Nhưng thiếp nghĩ nam tử từng thiết kế Ao Đột quán nhất định sẽ nhìn thấu mọi chuyện, nhận định rõ tình cảm của mình, sớm muộn gì cũng tới tìm thiếp. Thiếp đã đợi y hết ngày này sang tháng khác, đợi suốt ngày dài đêm thâu, đợi y tới tìm thiếp, nói với thiếp rằng, ‘Nặc Nại không thể cưới Vân Tang, nhưng ta đã đến đây, nàng có bằng lòng từ bỏ mọi thứ, mặc kệ điều tiếng, bỏ đi cùng ta chăng?’, thiếp sẽ nắm chặt lấy tay y, trả lời, ‘Cứ để người đời phỉ nhổ Nặc Nại và Vân Tang đi!’, rồi theo y tới chân trời góc bể. Thiếp đợi ngày lại ngày, đêm lại đêm, đợi đến nỗi đáy mắt và cõi lòng đều hoang hoải cỏ, nhưng chàng mãi không thấy tới!”
Vẻ mặt Nặc Nại đầy thê lương, y sợ hễ mở mắt lại trông thấy thi thể Băng Nguyệt, sợ đối diện với nước mắt Vân Tang, nên suốt ngày đêm chỉ chìm trong rượu, còn lo rượu chẳng đủ say người, bèn kiếm cả Ngọc Hồng thảo[4] tửu chuốc cho mình túy lúy. Mãi tới khi nghe tin Du Võng từ trần, y mới sực tỉnh.
[4] Ngọc Hồng thảo (cỏ Ngọc Hồng), trong Thi từ viết “Côn Luân có loài cỏ gọi là Ngọc Hồng, hễ ai ăn vào sẽ say khướt, ngủ luôn ba trăm năm mới tỉnh lại.”
Y siết chặt tay Vân Tang, “Vân Tang, ta đã đến rồi đây!”
Vân Tang thảm đạm rút tay lại, chăm chú nhìn pho tượng Du Võng, nước mắt từ khóe mi tràn ra, lăn xuống gò má, “Muộn mất rồi!”
Gương mặt buồn bã của Nặc Nại ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sẽ dựng một Ao Đột quán khác cho nàng, chỉ cần núi chưa mòn, sông chưa cạn thì chưa bao giờ muộn cả!”
“Giờ đây thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, là chỗ dựa của muôn dân trăm họ, thiếp không thể theo một tướng quân Cao Tân bội tín bạc nghĩa được.”
Nặc Nại khẩn thiết, “Vân Tang, nàng quên mình từng thề độc nếu còn can dự triều chính sẽ chết không toàn thây ư?”
Vân Tang mỉm cười nhìn Nặc Nại, mắt lệ nhòa mi, long lanh như trân châu dưới ánh sáng ảnh mộc lạnh lẽo, xói vào mắt Nặc Nại đau nhói, “Thiếp còn nhiều việc phải xử lý, Tướng quân về đi!”
Nặc Nại đăm đăm nhìn Vân Tang – người con gái mà mình vừa yêu vừa trọng, ánh mắt quyến luyến không nỡ rời, nhưng trong lòng lại rõ hơn ai hết, y chẳng thể nào có lại nàng được nữa, y đã đến muộn mất rồi!
“Vân Tang, nàng đừng…”
“Chàng cứ yên tâm, thiếp biết tự bảo trọng mà, trên Thần Nông sơn có cha mẹ và các em thiếp, dưới Thần Nông sơn còn có muôn dân của thiếp, thiếp nhất định sẽ bảo trọng.” Dứt lời, Vân Tang quay ngoắt đi, không nhìn Nặc Nại, chỉ chăm chú ngắm pho tượng Du Võng, cao giọng gọi, “Mộc Cận, muội đưa Tướng quân xuống núi đi!”
Mộc Cận bước vào xốc Nặc Nại dậy, vừa kéo vừa đẩy y ra khỏi cửa, hậm hực, “Tính tình vương cơ ra sao, Tướng quân ắt phải hiểu hơn ai hết, chỉ cần ngươi đưa tay ra, tỷ ấy sẽ vứt bỏ tất cả, theo ngươi tới chân trời góc bể. Nhưng tỷ ấy đợi suốt ngày dài đêm thâu, ngươi lại hèn nhát mượn rượu giải sầu, say sưa túy lúy, khiến tỷ ấy tan nát cả cõi lòng. Ngươi thật không xứng với Vân Tang tỷ tỷ! Giờ đây…” Mộc Cận rơm rớm nước mắt, “Nếu ngươi thật lòng quan tâm tới Vân Tang thì đừng quấy rầy tỷ ấy nữa!”
Nặc Nại loạng choạng leo xuống Thần Nông sơn, giữa đêm đen thăm thẳm, y chợt nghe văng vẳng tiếng đàn thê lương ai oán, là Vân Tang tấu khúc đàn dẫn đường cho Du Võng, hy vọng em trai bị chặt đầu có thể theo tiếng đàn mà yên nghỉ: hồn về, hồn về đây đi!
Nặc Nại ngẩn ngơ bay về phía Cao Tân, lòng thầm tự hỏi, chẳng rõ còn ai vì y mà tấu một khúc đàn, dẫn đường cho y tìm được nơi yên nghỉ hay chăng?
Về đến nhà, Nặc Nại bước vào phòng, trông thấy cây ngô đồng cầm mà mình làm cho Vân Tang đã phủi đầy bụi bặm.
Sớm sớm chiều chiều Vân Tang từng đàn cho y nghe chẳng biết bao lần, trong phòng tựa hồ còn văng vẳng giọng nói tiếng cười của nàng, ngoài hiên vẫn như thấp thóang dáng kiều hương tóc.
Nặc Nại khẽ vuốt ve dây đàn, cây đàn ngân lên tinh tang mấy tiếng, lạc lõng rơi vào thinh không.
Mấy kẻ hầu bưng vò rượu tiến vào, ngửi thấy hơi rượu, Nặc Nại tiện tay cầm lấy, nhưng vừa đưa lên miệng, y sực nhớ tới lời Vân Tang, liền quăng luôn ra ngoài cửa sổ, rồi mặc cho đám người hầu sợ hãi quỳ sụp cả xuống, y loạng choạng ném tất cả các vò rượu trong tay họ ra ngoài vỡ tan, “Đập hết các vò rượu trong phủ đi, đập hết!”
Đám người hầu lập cập dạ vâng, cuống quýt luồn ra cửa chạy thẳng, đúng lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, thấy vò rượu vỡ ngổn ngang đầy đất, “Cuối cùng ngươi cũng tỉnh.”
Nặc Nại ngồi xuống, đầu cúi gục, “Nhưng muộn mất rồi.”
Thiếu Hạo ngồi đối diện với Nặc Nại, thấy ngón tay y không ngừng mân mê hàng chữ nhỏ khắc trên cây đàn – mây soi hồ Ao Tinh, dâu biếc non Đột Bích – hàng chữ ấy chẳng những có tên Vân Tang lồng vào mà còn ám chỉ tình cảnh lần đầu tiên họ gặp nhau, hơn nữa là mượn hình ảnh mày soi hồ, dâu biếc núi bày tỏ tình cảm của y đối với nàng.
Thiếu Hạo thở dài tiếc nuối, “Nặc Nại từng khiến ta ngả mũ khâm phục trước tài hoa phẩm mạo đâu rồi?”
Nặc Nại bất động, chỉ thuận miệng đáp, “Nặc Nại đã phụ lòng kỳ vọng của điện hạ.”
“Ngươi thông minh mẫn tuệ, có từng nghĩ vì sao Hoàng Đế giết được Du Võng như bỡn vậy không?”
Câu hỏi này rốt cuộc cũng lôi kéo được sự chú ý của Nặc Nại, y ngẩng mặt nhìn Thiếu Hạo, vừa ngẫm ngợi vừa đáp: “Hoàng Đế tự tay giết chết Du Võng có thể khích lệ sĩ khí Hiên Viên tăng vọt, đập tan ý chí chiến đấu của Thần Nông, nhưng nếu không nắm rõ nơi ở của Du Võng cùng lực lượng thị vệ quanh y thì không đáng đích thân mạo hiểm hành thích.”
“Hoàng Đế là người rất thận trọng, một khi đã hành động là phải thành công, e rằng cả việc Du Võng ngự giá thân chinh cũng nằm trong kế hoạch của ông ta, mục đích là để ám sát Du Võng.”
Nặc Nại dần đanh mặt lại, “Trong Thần Nông quốc có một tên nội gián địa vị rất cao!”
Thấy Thiếu Hạo gật đầu tán đồng, ánh mắt Nặc Nại chợt hoang mang lo lắng, chẳng rõ Vân Tang đã biết chưa?
“Nặc Nại, ta có một chuyện muốn nhờ ngươi, việc này chẳng những lợi cho Thần Nông, mà còn lợi cả cho Cao Tân nữa.”
“Thần ngu độn, không nghĩ ra việc gì vừa có lợi cho Thần Nông, lại vừa có lợi cho Cao Tân cả.”
“Ta cứ nghĩ Thần Nông quốc lực hùng hậu, Hiên Viên và Thần Nông ắt phải giao chiến khá lâu mới phân thắng bại, ta sẽ có nhiều thời gian cải cách chấn chỉnh Cao Tân. Dù Hiên Viên đánh bại Thần Nông, hẳn cũng hao binh tổn tướng, suy kiệt nguyên khí, tới lúc đó ta có thể ung dung đối phó với Hoàng Đế. Ngờ đâu Hoàng Đế trong ứng ngoài hợp, đưa ra diệu kế này, vừa cất tay đã phá tan đại quân Thần Nông. Nếu ông ta tiêu diệt Thần Nông xuôi chèo mát mái thì Cao Tân sẽ trở thành miếng mồi ngon kế tiếp, chẳng mấy chốc mà máu đổ thành sông, tiếng than dậy đất, mấy chuyện tranh chấp giữa ta và Yến Long, Trung Dung cùng Cao Tân tứ bộ không bằng ngón tay so với cuộc chiến này đâu.”
Ánh mắt Nặc Nại lộ vẻ kiên quyết, y nghiêm trang đáp, “Bệ hạ đâu phải như Du Võng, chúng tướng sĩ nhất định không để lại đại quân Hiên Viên tiến vào Cao Tân một bước!”
Nhận thấy nam tử trung dũng một lòng khi xưa đã trở về trong Nặc Nại, Thiếu Hạo tươi cười gật đầu, “Ta cần thời gian để củng cố ngai vàng, cải cách Cao Tân, huấn luyện quân đội!”
“Phải làm sao mới tranh thủ được thời gian?”
“Hoàng đế chinh phục Thần Nông chậm ngày nào, Cao Tân sẽ được an toàn thêm ngày đó.”
Nặc Nại dần hiểu ra, “Cao Tân là đông minh của Hiên Viên, không tiện công khai hỗ trợ Thần Nông, nhưng cứ âm thầm giúp đỡ, đại quân Thần Nông càng mạnh thì Hoàng Đế càng bị uy hiếp, Cao Tân chúng ta cũng càng được lợi.”
“Đúng! Đây chính là việc có lợi cho cả Thần Nông lẫn Cao Tân mà ta nói đó.”
Nặc Nại biết Thiếu Hạo rất thâm trầm, nói câu này ắt hẳn có dụng ý, y trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát rồi quỳ xuống trước mặt Thiếu Hạo, “Thần nguyện làm tất cả mọi việc bệ hạ giao phó!”
Thiếu Hạo nói: “Đáng ra, ngươi xuất thân cao quý, không nên đảm đương việc này, nhưng những kẻ có dũng khí thì lại kém cơ biến, được cơ biến thì lại chẳng trung thành, đủ trung thành thì kém cỏi bất tài, nghĩ đi nghĩ lại chỉ có mình ngươi là phù hợp, có điều, như vậy ngươi phải hy sinh nhiều quá.”
Nặc Nại đáp, “Bệ hạ hiểu lòng thần đối với Vân Tang mà, nếu chẳng phải là tướng lĩnh Cao Tân, lại chịu ân sâu của bệ hạ, thần chỉ muốn đầu quân Thần Nông, lập tức ra chiến trường đẩy lùi Hiên Viên, bảo vệ Vân Tang thôi. Giờ đây khó khăn lắm mới tìm được cơ hội, vừa vẹn toàn tình được tình cảm của thần dành cho Vân Tang, lại vừa đáp đền được ơn nước, dù phải hy sinh thứ gì, thần cũng cam tâm tình nguyện.”
“Chuyện này chỉ có thể âm thầm tiến hành, trừ ta và ngươi, không kẻ nào được biết cả, dù ngươi trợ giúp Vân Tang, nàng ta cũng chẳng biết ngươi là Nặc Nại đâu.”
Nặc Nại cười thê lương, “Thần hiểu, nếu thần tiết lộ thân phận, chẳng những hại đến Vân Tang, mà còn hại cả Cao Tân nữa.”
“Dù phải hy sinh bất cứ thứ gì, ngươi cũng bằng lòng ư?”
“Chết cũng không hối!”
“Được lắm, việc đầu tiên ta muốn ngươi làm là cứ tiếp tục say sưa túy lúy tối ngày. Việc thứ hai…” Thiếu Hạo cầm cây đàn lên. “Ta muốn ngươi nhân lúc say khướt, đập nát cây đàn này dưới cổng thành Băng Nguyệt treo cổ tự sát, trước mặt mọi người.”
Nặc Nại bàng hoàng nhìn cây đàn, hối lâu không đáp.
Thiếu Hạo lạnh lùng hỏi, “Ngươi say đập đàn, cũng có nghĩa là cắt đứt sợi tơ tình cuối cùng giữa ngươi và Vân Tang, khiến nàng ta triệt để lãng quên ngươi, ngươi có chấp nhận hy sinh không?”
Nặc Nại ra sức dập đầu, “Thần chấp nhận.”
Quyển 2 – Chương 8: Nhớ chàng hận chàng, chàng có hay[1]
Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ộng, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?
[1] Trích trong bài Cây tương tư của Lương Khải Siêu (1873-1929) (ND)
Sau khi đại náo Triêu Vân điện, Đồng Ngư thị vừa đánh trống vừa la làng, tức tốc dâng thư lên Hoàng Đế lu loa rằng mình bị làm nhục, Hoàng Đế liền phái người đem thư của Đồng Ngư thị tới Triêu Vân điện.
Xương Ý đọc xong đến run rẩy toàn thân, nắm chặt phong thư định đến trước mặt phụ vương nói rõ trắng đen phải trái, nhưng A Hành kịp ngăn lại. Nàng mỉm cười cầm bút lên viết thư trả lời, cung kính bác bỏ từng “tội danh” một.
Được tin Luy Tổ bệnh nặng, Thiếu Hạo cho rằng trong trăm điều thiện, chữ hiếu đứng đầu, đồng ý để A Hành ở lại Triêu Vân điện chăm sóc mẹ. Thấm thoắt đã một năm, chẳng biết tự khi nào mọi việc trong nhà đều do A Hành làm chủ, từ bài trí Triêu Vân điện, lo liệu việc sinh hoạt ăn uống hằng ngày cho mẹ đến trả lời thư từ của Hoàng Đế, giải quyết công văn các nơi trình lên, nàng đều xử lý gọn gàng đâu ra đấy.
Nhìn A Hành ung dung tươi cười thu xếp mọi việc, Xương Ý vừa xót xa, vừa kính phục.
Thấy Xương Ý thừ người bên song hồi lâu, Xương Phó bèn lại gần, nhìn theo ánh mắt Xương Ý, nàng trông thấy A Hành đang cùng Luy Tổ tản bộ trong rừng dâu.
Xương phó vòng tay ôm lấy Xương Ý từ phía sau, áp mặt vào lưng y, dịu dàng hỏi: “Chàng nghĩ gì thế?”
Xương Ý không ngoảnh lại, chỉ áp tay lên tay Xương Phó, “Khi trước ta cứ nghĩ A Hành cũng như mình, giờ mới hiểu, thật ra con người muội ấy rất giống Đại ca.”
“Ừm, tiểu muội kiên cường hơn thiếp tưởng nhiều.” Thanh Dương bị Xi Vưu giết, Xi Vưu sống chết không rõ, nếu đổi lại là nàng, e rằng chỉ một biến cố đã đủ gục ngã rồi, vậy mà A Hành vẫn đứng vững vàng, còn có thể chăm lo cho người thân bên cạnh nữa.
Xương Ý hỏi nhỏ: “Ta là bậc đại ca vô dụng, phải không? Sớm biết thế này, thà ta cố gắng tu luyện cho giỏi, còn hơn tốn thời gian đọc sách vẽ tranh.”
Xương Phó đau xót ôm chặt lấy Xương Ý, “Đại ca và tiểu muội giống như lưỡi kiếm vậy, nhìn thì sắc bén lợi hại, nhưng rất dễ làm thương tổn bản thân mình, còn chàng lại chính là vỏ kiếm, bề ngoài giản dị thô sơ, nhưng có thể bảo vệ cho lưỡi kiếm yên tâm ngơi nghỉ. A Hành kiên cường được như vậy vì muội ấy biết, sau lưng mình luôn có Tứ ca.”
Đôi mày Xương Ý dần giãn ra, y lấy tay siết chặt tay Xương Phó. Tuy nỗi đau vẫn ngày đêm canh cánh bên lòng, nhưng y hiểu rằng, bất kể lúc nào, hễ y hoang mang yếu đuối, nàng sẽ dang tay ôm lấy y. Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ông, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?
Thấy mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, Xương Phó cười nói: “Hôm nay nắng đẹp quá, chúng ta kê mấy chiếc bàn dưới gốc dâu dùng cơm luôn được không?”
“Được.”
Xếp đặt xong xuôi, Xương Phó hào hứng gọi, “Mẫu hậu, tiểu muội lại dùng cơm thôi.”
A Hành đỡ Luy Tổ tiến lại, nhưng vừa ngửi thấy mùi cơm, nàng bỗng thấy dạ quặn lên, choáng váng đầu óc, chỉ muốn nôn. Nàng ọe ọe nôn khan mấy tiếng, Luy Tổ phải đỡ lấy nàng. Sợ mẹ lo cho mình, nàng cười trấn an, “Con không sao, chắc tại hôm qua ăn nhiều, dạ dày biểu tình đó mà.”
Luy Tổ đổi nét mặt, đặt tay lên bụng A Hành cười hiền hậu, “Nha đầu ngốc, cứ khoe khoang giỏi y thuật, thế mà mang thai cả năm trời không biết.”
Xương Ý biến sắc, A Hành cũng tái mặt, may sao Luy Tổ đang mừng rỡ vô vàn nên chẳng kịp nhận ra vẻ khác thường của hai người, “Phải báo ngay cho Thiếu Hạo, nó mà biết chắc sẽ vui lắm đây!”
Xương Phó vội chen vào: “Mẫu hậu, người dùng cơm đi đã, ăn xong rồi tính chuyện báo cho Thiếu Hạo cũng chưa muộn mà, lỡ như Thiếu Hạo mừng quá đón muội muội về ngay, mẫu hậu lại chẳng quyến luyến không rời ấy chứ.”
A Hành lấy lại bình tĩnh nói: “Mẹ, con muốn chính miệng báo tin này cho Thiếu Hạo.”
Luy Tổ cười, “Cũng phải, mẹ mừng quá đâm hồ đồ mất rồi.”
Xong bữa, Xương Ý đưa mắt ra hiệu cho Xương Phó, nàng liền kiếm cớ đỡ Luy Tổ đi trước.
Còn lại hai người, Xương Ý hỏi: “Muội định thế nào? Đây là con của Xi Vưu đó!”
A Hành cúi đầu không đáp, chuyện này quá bất ngờ đối với nàng, vừa nãy mải lo đối phó với mẹ nên chưa có thời gian nghĩ ngợi cho kỹ. Một lúc lâu sau nàng tươi cười ngẩng lên, ánh mắt đầy vui sướng, “Tứ ca, huynh sắp làm bác rồi.”
Xương Ý ngây người. Dù y hận Xi Vưu tới đâu, đứa nhỏ này vẫn là con của A Hành.
“Phải, ta sắp làm bác rồi.” Xương Ý bật cười, lòng rộn những hân hoan, giờ đây y mới hiểu được niềm vui của mẫu hậu, trên thế gian này, chỉ có sinh mệnh mới xua tan được bóng tối của diệt vong mà thôi.
Tiếng cười của Xương Phó vang lên, “Chàng thích trẻ con như vậy, sau này chúng ta cũng sinh một bầy cho vui.” Nói rồi nàng ngồi xuống cạnh Xương Ý, hai tay chống cằm, nheo mắt nói: “Nếu có một bầy con nít xúm xít quanh mẫu hậu, luôn miệng líu lo bà ơi bà hỡi, chắc mẫu hậu phải cười tít mắt suốt ngày.” Nàng chợt vỗ tay đánh bốp, tuyên bố với Xương Ý, “Quyết định thế đi, hai ta mau sinh con thôi, sinh cả một bầy để khắp Triêu Vân phong đâu đâu cũng nghe thấy tiếng con nít nô đùa.”
Thầm nghĩ mình và Xi Vưu chắc chỉ có một đứa con này, A Hành thấy xót xa vô hạn, đành nén lòng cười góp chuyện: “Vậy thì hay quá, cả đám huynh đệ tỷ muội cùng lớn lên bên nhau, rất thú vị.”
Xương Phó gật lấy gật để, hào hứng như thể mình đã có cả đàn con vậy.
Xương Ý cười giễu: “Chỉ vớ vẩn! Trời cho Thần tộc trường sinh, nhưng lại hạn chế số lượng ngặt nghèo, người trong Thần tộc rất khó hoài thai, các cô tưởng thích là được đấy hả?”
Xương Phó cười tít, “Hai ta chưa nay chưa hề làm chuyện xấu, nhất định trời cao sẽ ban cho chúng ta con cái đầy đàn.”
Xương Ý nghiêm mặt bào A Hành: “Muội tìm cách lựa lời với Thiếu Hạo đi, nếu sinh con gái thì không sao, chứ lỡ là con trai, đứa nhỏ sẽ trở thành Đại vương tử Cao Tân đó, chuyện này không đùa được đâu.”
Xương Phó gật đầu, “Liên quan tới vương vị, e rằng Thiếu Hạo sẽ không nhận bừa con đâu. Nếu người ta biết đứa nhỏ này không phải huyết mạch vương thất, theo luật Cao Tân, nó sẽ bị dìm chết, còn muội sẽ bị tước phong hiệu, nhốt vào lãnh cung.”
Xương Ý tiếp lời: “Không được để ai biết đứa bé này là con của Xi Vưu, mấy trăm năm nay hắn đã gánh lấy đủ điều tiếng xấu để Du Võng hưởng tiếng thơm, khiến bao người căm hận rồi.”
Bỗng chốc cả ba đều trầm ngâm buồn bã. Một năm trước đây, Thần Nông vẫn còn là bá chủ Trung Nguyên, vậy mà bây giờ đã ở bên bờ vực diệt vọng, Du Võng lìa trần, Thanh Dương qua đời, Xi Vưu sống chết chưa rõ…
A Hành gượng cười, “Về đến Cao Tân, muội sẽ bàn bạc chuyện này với Thiếu Hạo, hai người đừng lo.”
Tuy chẳng nỡ xa mẹ và Tứ ca, nhưng lưu lại Triêu Vân phong quá lâu cũng không tiện, hơn nữa bây giờ A Hành đã có mang, buộc phải quay về Cao Tân. Đương lúc thu xếp định đi, Hoàng Đế đột ngột triệu tập nàng và Xương Ý.
A Hành đoán không ra Hoàng Đế nghĩ gì, lại biết rõ Tứ ca bản tính thật thà, bèn dặn dò Xương Ý, “Nếu phụ vương vặn vẹo chuyện gì đó khó trả lời, huynh nhớ đừng nói gì cả, cứ để muội đáp thay.”
Thượng Hiên cung nằm ở phía Bắc Hiên Viên thành, được xây dựng từ khi mới lập quốc, nhằm phô bày uy thế một quốc gia nên tuy cung điện không rộng rãi, nhưng cũng hao phí khá nhiều sức người sức của. Có lẽ vì danh hiệu Hoàng Đế nên Hoàng Đế rất yêu màu vàng, mái ngói hành lang đều dát vàng lóng lánh. A Hành và Xương Ý tới nơi đúng lúc hoàng hôn, cả cung điện lấp loáng như có hào quang bao phủ, huy hoàng lộng lẫy, trang nghiêm tráng lệ khiến người ta chấn động cả tâm thần.
Buổi nghị sự trong điện vừa tan, khắp nơi vẫn bày đầy chung trà đĩa quả, những ấm vàng chén bạc dưới ánh chiều tà như tỏa ra một quầng sáng mờ mờ ấm áp.
Hoàng Đế đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng chạm rồng cao giữa điện, toàn thân chìm giữa tầng tầng hào quang, cao lớn mà uy nghiêm.
Xương Ý và A Hành quỳ xuống dập đầu khấu kiến, Hoàng Đế liền đứng lên bảo A Hành, “Con là vương phi Cao Tân, khỏi cần hành đại lễ với ta.”
A Hành thưa: “Ở Hiên Viên, con chỉ là con gái Người, không phải vương phi Cao Tân.”
Hoàng Đế cười hài lòng, gọi bọn họ lại cùng ngồi. Xương Ý và A Hành một trái một phải chia nhau ngồi xuống sạp kê ngay dưới chân ngai vàng.
Đợi cả hai yên vị, Hoàng Đế bèn hỏi thăm sức khỏe Luy Tổ, Xương Ý lễ phép trả lời. Đột nhiên, Hoàng Đế hỏi tới Thanh Dương, “Tình trạng Thanh Dương thế nào rồi?”
A Hành vội đáp: “Đại ca bị thương rất nặng, vẫn hôn mê bất tỉnh, nếu lúc đó không có Thiếu hạo, e rằng huynh ấy đã…”
Hoàng Đế thở dài phán: “Hôm nay ta gọi các con đến là muốn bàn bạc một chuyện. Hẳn hai đứa cũng nghe ngóng được tình hình chiến sự gần đây phải không?”
Xương Ý thưa: “Con thấy tin thắng trận báo về dồn dập mà.”
“Đó chỉ là bề ngoài thôi. Tuy Thần Nông quốc đã chia năm xẻ bảy, nhưng lòng dân vẫn hướng về cố quốc, dễ đâu chịu hàng phục chúng ta. Trừ một phần nhỏ quy hàng, đại bộ phận còn lại mới là mối uy hiếp lớn nhất. Hiện giờ chúng đang sợ vỡ mật, không dám chính diện đối kháng, nhưng hễ chúng ta sơ sảy, chúng sẽ kích động đám điêu dân đó nổi dậy chống lại, đến lúc đó một đám lửa nhỏ cũng thiêu trụi được cả cánh đồng. Bởi thế chúng ta phải thực thi sách lược trên nhiều mặt, tại chiến trường hễ kẻ nào ngoan cố chống cự lập tức thẳng tay trừng trị, nên giết thì giết, nên chém thì chém, mặt khác lại phải đối đãi tốt với dân chúng Thần Nông, để tất cả dân chúng Thần Nông hiểu rằng, chỉ có quốc hiệu thay đổi, còn bọn họ vẫn có thể an cư lạc nghiệp như xưa.”
A Hành tán thưởng: “Kiêm cả ân uy, phụ vương quả là anh minh.”
Hoàng Đế nói tiếp: “Về phần các nước chư hầu của Thần Nông, mọi hứa hẹn đều chỉ là lời nói suông, cách tốt nhất là chứng minh cho họ thấy Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc có quan hệ khăng khít, cùng hưởng họa phúc.”
Xương Ý ngỡ ngàng hỏi: “Ý phụ vương muốn Hiên Viên và Thần Nông kết thông gia ư? Phụ vương định phái vị đệ đệ nào đi cầu hôn đây?”
Hoàng Đế ưu tư thở dài: “Không chỉ là kết thông gia bình thường đâu, cuộc hôn nhân này còn phải liên quan chặt chẽ đến vương vị nữa.”
Xương Ý và A Hành nhìn nhau, đồng thanh hỏi: “Sao lại thế?”
“Muốn giành được lãnh thổ, lấy lòng trăm họ Thần Nông, chúng ta phải thể hiện thành ý của mình. Vương tử cầu hôn nhất định phải là người thừa kế vương vị tương lai, bằng không dựa vào cái gì đòi Thần Nông quy thuận? Hơn nữa, tình thế hiện giờ buộc phải làm vậy thôi. Dân chúng Thần Nông chiếm gần một nửa dân số đại hoang, Thần Nông tộc còn là Thần tộc lớn nhất, lại cả những Thần tộc đã thông gia với Thần Nông suốt bao đời nay nữa, tất cả bọn họ đều dốc sức ủng hộ cho kẻ nào kết hôn cùng vương cơ của Thần Nông. Sau khi đầu hàng, dù là vì hổ thẹn hay vì muốn giữ mạng, họ nhất định sẽ tìm trăm phương ngàn cách giúp vị vương tử đó đăng cơ, chỉ có vậy, đứa trẻ mang dòng máu Thần Nông mới có thể thừa kế vương vị ngày sau, bảo vệ lợi ích của Thần Nông tộc mãi mãi.”
A Hành khẽ hỏi: “Phụ vương bằng lòng để một đứa trẻ mang huyết mạch Thần Nông kế thừa vương vị thật ư?”
Hoàng Đế gượng cười, “Ta không bằng lòng thì biết làm sao? Vũ lực chỉ là biện pháp trấn an tạm thời, dù ta có trở thành bạo chúa chăng nữa, cũng đâu giết hết được dân chúng Thần Nông? Có khi chưa giết hết được bọn họ, Hiên Viên đã mất nước rồi cũng nên. Nếu kết hợp huyết mạch hai nhà có thể giúp Hiên Viên thuận lợi nắm giữ thiên hạ, ta đành chấp nhận vậy! Đương nhiên, đây chỉ là kế quyển nghi trước mắt thôi, Thanh Dương đâu thể chỉ có một phi tử, nếu sau này Thần Nông không còn giá trị lợi dụng thì thiên hạ này chẳng có phần cho chúng nữa đâu!”
A Hành chợt thấy vừa nể vừa sợ phụ vương, tầm mắt của ông đã vượt xa thắng lợi hiện giờ, âm thầm suy tính cho cả ngàn năm sau rồi.
Hoàng Đế đưa mắt nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang A Hành, “Chính vì mối thông gia này liên quan mật thiết tới vương vị, các quan trong triều đã cãi nhau ỏm tỏi mấy ngày nay, một phe cho rằng cuộc chiến lần này Di Bành lập được công lớn, nên cử Di Bành đi cầu thân, một phe lại khăng khăng phái Thanh Dương đi mới biểu lộ được thành ý của Hiên Viên tộc. Chắc hẳn các con có thể cho ý kiến thay Thanh Dương, các con nói xem, ta nên chọn Thanh Dương hay Di Bành?”
Xương Ý chẳng biết phải trả lời sao, đành nhìn sang em gái. A Hành cúi đầu trầm ngâm giây lát rồi ngẩng lên nhìn Hoàng Đế, dõng dạc, “Xin phụ vương phái Đại ca đi cầu thân.”
Hoàng Đế hỏi: “Tại sao? Con đừng ca ngợi công trạng Thanh Dương nữa, hôm nay ta nghe chán cả tai rồi.”
Gương mặt A Hành đầy vẻ bi ai, nhưng giọng điệu lại vang vang rành rọt, ẩn hiện sát khí: “Nguyên nhân Thần Nông tộc muốn liên hôn cũng giống như chúng ta thôi, chỉ mình Đại ca mới có thể thực hiện điều đó, vấn đề ở đây không chỉ là thành công hay không, mà còn liên quan tới chuyện sống chết nữa, nếu phụ vương phái Di Bành đi cầu hôn, thì con xin thưa ngay, từ nay về sau, phụ vương chắc chắn sẽ mất sự phò tá của Thanh Dương, đồng thời mất luôn con và Tứ ca!”
Hoàng Đế đanh mặt lại, trừng trừng nhìn A Hành như chất vấn: Ngươi dám uy hiếp ta ư? A Hành cũng thản nhiên nhìn lại, ánh mắt bình tĩnh mà bi ai, mặc cho Xương Ý bên cạnh căng thẳng đến nghẹt cả thở.
Trong nháy mắt, Hoàng Đế chợt phá lên cười, gật gật đầu vẻ tán thưởng, “Giỏi lắm, không hổ danh là con gái ta! Các con nhớ lấy, Hiên Viên tộc chỉ có hai bàn tay trắng, muốn có thứ gì, phải tự mình giành giật mới được!”
Xương Ý và A Hành nhất loạt quỳ xuống, “Tạ phụ vương.”
Hoàng Đế lại hỏi: “Bao lâu nữa Thanh Dương mới khỏe lại được?”
A Hành thưa: “Nếu muốn khôi phục hoàn toàn linh lực, ít ra cũng phải một hai trăm năm, nhưng đây là kết hôn chứ đâu phải giao đấu, đợi thương thế ổn định, chắc Đại ca cũng có thể tạm thời xuất quan một thời gian.”
“Vậy được, Xương Ý thay Đại ca con tới Thần Nông cầu hôn đi, ngày thành thân sẽ bàn sau.”
A Hành vội hỏi: “Chẳng hay phụ vương định chọn cô gái nào trong Thần Nông tộc?”
“Con hỏi đúng lúc lắm, ta đang muốn nghe ý kiến của con đây. Du Võng không con không cái, Viêm Đế đời trước có ba cô con gái, một con gái nuôi, hai người đã mất, hiện giờ chỉ còn lại Vân Tang và Mộc Cận, đương nhiên Trưởng vương cơ Vân Tang xứng đáng đại diện cho Thần Nông hơn cả, có điều…”
“Phụ vương e ngại tỷ ấy từng có hôn ước với Nặc Nại ư?”
“Hiên Viên chúng ta đâu có lắm lễ tiết rườm rà như Cao Tân, đừng nói là hôn ước, dù Vân Tang đã gả chồng, chỉ cần nàng ta mang huyết mạch của Viêm Đế, chúng ta cũng vẫn lấy!”
“Vậy phụ vương còn ngại gì nữa chứ?”
“Ta ngại Vân Tang thôi, nàng ta đâu phải loại người dễ lung lạc, thật ra, ta ưng Mộc Cận hơn, nhưng Mộc Cận chỉ là con nuôi, không chính danh bằng Vân Tang, nên cứ cầu hôn với Vân Tang đi!”
A Hành lẩm bẩm, “Lỡ… lỡ như… Vân Tang không chịu thì sao?”
Hoàng Đế cười nhạt, “Trong quá khứ Thần Nông có hùng mạnh đến mấy thì hiện giờ cũng đã đại bại rồi, họ khiếp sợ cảnh phơi thây đầy nội, máu chảy thành sông, chả cuống quýt kết thông gia để đổi lấy hòa bình ấy chứ!”
A Hành chẳng dám nhiều lời, đành cung kính đáp: “Con hiểu rồi.”
Xương Ý và A Hành hành lễ thoái lui rồi cùng ngự xe mây về Hiên Viên sơn. Ngồi trong xe, Xương Ý hỏi nhỏ: “Làm vậy có ổn không? Chúng ta chưa kịp bàn bạc gì với Thiếu Hạo cả.”
“Nếu Đại ca không lấy thì Di Bành lấy, đứng trước lựa chọn sinh tử này, Thiếu Hạo còn lý trí quả quyết hơn chúng ta nhiều, nhất định y sẽ tán đồng thôi. Huống chi…” A Hành nắm lấy tay Xương Ý, nghiêm trang nói, “Thiếu Hạo chính là Thanh Dương, là Đại ca của chúng mình.”
Xương Ý gật gật đầu, “Ta nhớ mà.”
Về đến chân núi Hiên Viên, hai người vừa khéo gặp ngay Di Bành đang định lên núi. Luận về vai vế, Di Bành phải nhường đường cho Xương Ý, nhưng luận về phẩm tước, Xương Ý lại phải nhường đường cho Di Bành. Đám đánh xe bên nào cũng tranh đi trước, chẳng ai chịu ai, cãi nhau ầm ĩ cả lên.
Xương Ý thấy việc chẳng đáng gì bèn vén rèm xe, toan bảo thị vệ nhường đường nhưng A Hành đã giữ tay y lại, lắc đầu. Vấn đề ở đây không phải là khí thế, mà là thái độ, tuy chuyện này rất nhỏ nhặt, nhưng nếu nhường nhịn sẽ khiến chúng thị vệ nản lòng, họ chẳng nề phạm thượng bảo vệ chủ nhân, vậy mà chủ nhân lại không bảo vệ lấy uy phong của mình, thử hỏi ngày sau họ còn nhiều chuyện làm chi nữa?
Thấy thị vệ hai bên chuẩn bị động thủ, Di Bành nhảy xuống xe quát: “Các ngươi tưởng đây là đâu hả?” Hắn vừa nạt đám thị vệ, vừa bước lại chỗ bọn Xương Ý.
Xương Ý chẳng muốn trò chuyện với kẻ hại chết Đại ca nên chỉ đáp qua loa mấy câu rồi giả bộ ngắm cảnh, lờ hắn đi. Trái lại, A Hành vẫn cười nói vui vẻ với Di Bành, còn chúc mừng hắn được thăng làm Đại tướng quân.
Di Bành đưa mắt nhìn quanh, không thấy cung nữ thị vệ nào gần đó, bèn hạ giọng nói nhỏ: “Gần đây ta bắt được khá nhiều tù binh Thần Nông, để giữ mạng, lời gì chúng cũng phun ra hết, mong vương cơ thận trọng.”
“Chúng nói chuyện gì?”
“Chúng nói vương phi có tư tình với Xi Vưu! Chúng kể có đầu có đuôi, nghe như thật ấy, còn nói trước trận Phản Tuyền, Xi Vưu lén lút hẹn hò với vương phi, ta sợ phụ vương nổi giận nên chẳng dám tấu trình gì cả. Có điều, Cao Tân lễ tiết nghiêm ngặt, nếu có chuyện này chuyển đến Cao Tân, dù là lời đồn nhảm, cũng sẽ gây ra một trận xôn xao, trời long đất lở.”
Theo phản xạ, A Hành chợt đưa tay lên bụng, nhưng miệng vẫn nở nụ cười, “Lại còn có chuyện đó nữa ư? Xi Vưu đánh Đại ca trọng thương, muội hận hắn còn không hết nữa là.”
Di Bành cười, “Thần Nông và Hiên Viên đều đang lùng sục hắn khắp nơi, nhưng suốt cả năm nay vẫn bặt vô âm tín, có lẽ Xi Vưu bỏ mạng thật rồi, nói không chừng xương cốt cũng chẳng còn toàn vẹn, xem như vương phi đã trả được thù.”
A Hành thấy lòng đau thắt, dạ quặn lên, chưa kịp phản ứng, nàng đã ồng ộc nôn hết vào áo Di Bành.
Di Bành cuống quýt lùi ra xa, đám cung nữ theo hầu cũng tái mặt, kẻ bưng nước, người cầm khăn, vội vã xúm lại.
Di Bành chỉ ghê tởm cau mày, mặc đám cung nhân rối rít vậy quanh.
Thấy A Hành vẫn nhoài ra song cửa, không ngừng nôn khan, Xương Ý bèn lấy ô mai đã chuẩn bị sẵn đưa cho nàng ngậm để khỏi cồn ruột.
Nôn hết một chập, A Hành xây xẩm mặt mày, nói chẳng ra hơi.
Thấy vậy, Di Bành bèn bảo Xương Ý: “Vương phi đang khó ở, Tứ ca đi trước đi.”
Đợi đoàn xe Xương Ý đi xa, Di Bành mới tiếp tục lên đường. Hắn cứ thấy trong lòng lấn cấn, như thể mình đã bỏ sót chuyện gì đó rất quan trọng, nhưng rốt cuộc là chuyện gì thì nghĩ mãi không ra.
Vừa về tới Chỉ Nguyệt điện, một cánh Lam Thước liền đậu ngay lên vai Di Bành, thả thẻ ngọc vào tay hắn, Di Bành mỉm cười, vội lật lên đọc.
Hoàng Đế đã quyết định chọn Thanh Dương để kết nhân duyên với Thần Nông tộc!
Di Bành chợt tắt hẳn nụ cười, bóp thẻ ngọc nát vụn ra như cám, Lam Thước cũng phát hoảng vì sát khí của hắn, ré lên một tiếng rồi bay vụt vào rừng.
Đồng Ngư thị ngồi thẫn thờ giữa ngôi đình bát giác trên đỉnh núi, nét mặt nhợt nhạt chẳng chút sinh khí, hệt như một pho tượng có máu có thịt. Từ sau khi Hiên Viên Huy chết đi, bà ta cứ tỉnh táo được vài ngày lại ngây dại mất mấy hôm, lúc tỉnh táo thì chăm chăm tìm cách hãm hại Luy Tổ, khi ngây dại lại đờ đẫn lên đỉnh núi ngồi đợi Hiên Viên Huy trở về, khuyên nhủ sao cũng vô ích.
Thấy Di Bánh tới tìm Đồng Ngư thị, vú già liền bước ra hành lễ rồi bẩm báo: “Có một thị nữ khi xưa từng hầu hạ nương nương tới xin gặp. Vì có tư tình, theo luật ả phải bị đánh roi đến chết, nhưng nương nương khai ân, chẳng những không trách phạt mà còn sắp xếp để ả có thể suôn sẻ gả chồng. Gần đây, ả theo chồng quay về Hiên Viên thành, nghe nói nương nương khó ở, nhớ lại Người vẫn thích mấy món dưa ả muối, nên kiếm cách dâng lên. Nô tỳ nhận lấy rau dưa, bảo ả về nhưng ả vẫn ghi lòng tạc dạ ơn nương nương năm đó, muốn gặp mặt nương nương để đập đầu bái tạ, đã chờ nửa ngày nay rồi.”
Di Bành ôn hòa hạ lệnh, “Hiếm được người có lòng như thế, triệu ả vào gặp nương nương đi.”
Di Bành tế nhị tránh sang một bên, chẳng bao lâu, một phụ nữ bụng chửa vượt mặt bưng một liễn dưa bước vào, thoạt trông thấy Đồng Ngư thị, ả liền quỳ sụp xuống, nhưng Đồng Ngư thị chẳng hề nhận ra, chỉ trân trân dán mắt vào bụng ả.
Nhìn vẻ đờ đẫn của Đồng Ngư thị, ả hết sức đau lòng, nhưng biết cung đình quy củ nghiêm ngặt nên chẳng dám hé răng nửa lời, chỉ trao liễn dưa cho thị nữ rồi dập đầu lui ra.
Nào ngờ ở vừa đứng lên, Đồng Ngư thị đột ngột cất tiếng: “Ngươi nghén lắm hả?” Chẳng đợi ả trả lời, bà ta lẩm bẩm nói tiếp: “Hồi đó ta nghén rất khủng khiếp, hơi tí là nôn ọe. Nhà họ Đỗ ngoài thành Bắc bán ô mai ngon lắm, ngậm một quả là đỡ ngay, ngươi cũng mua chút ít đi. Nhớ lấy, dù nôn cũng gắng ăn uống, không được bỏ cơm, đừng để con nó đói.”
Người đàn bà kia ngẩn ra, gật đầu, vú già bên cạnh liền giơ tay ra hiệu cho ả mau lui.
Di Bành đứng xa xa lắng tai nghe ngóng, chợt sững người, đoạn phá lên cười khoái trá. A Hành có thai rồi ư? Đứa nhỏ này chắc chẳng phải của Thiếu Hạo, xem chừng cơ hội đẩy cả nhà Luy Tổ lên đoạn đầu đài sắp đến rồi đây!
Hắn liền quay sang dặn kẻ hầu: “Đưa người đàn bà đó ra khỏi cung, nhớ ban thưởng hậu hĩnh vào.”
Nói rồi hắn cười đắc ý, cầm lấy áo choàng từ tay thị nữ, rảo bước tiến vào đình, khoác áo lên vai Đồng Ngư thị, “Mẹ, chúng ta vào nhà đi.”
“Sao Huy nhi mãi vẫn chưa về? Sao lâu nay ta chẳng được gặp nó gì cả.”
“Huynh ấy bận theo phụ vương xử lý công vụ, mấy ngày nay chưa về được đâu, chẳng phải mẹ vẫn dạy chúng con phải ra sức nỗ lực đó ư? Tam ca có mẫn cán mới được lòng phụ vương chứ!”
“Đúng đúng, các con phải gắng lên, nhất định không được để con trai của ả tiện nhân trên Triêu Vân phong kia qua mặt.” Đồng Ngư thị cười hài lòng.
Di Bành vừa khép áo choàng lại cho mẹ, vừa tươi cười nói nhỏ: “Vừa nãy, mẹ đã chỉ cho con một con đường rồi, bọn chúng không đắc ý được lâu nữa đâu.”
A Hành và Xương Phó theo Luy Tổ đi dạo trong rừng dâu, chợt thấy Chu Du chốc chốc lại đảo qua, hỏi có chuyện gì ả nhất mực không nói, chỉ lắc đầu quầy quậy: “Không có gì, không có gì cả.”
Lời vừa ra khỏi miệng chẳng bao lâu, chợt thấy bóng áo vàng của ả thấp thoáng giữa rừng cây, Luy Tổ không khỏi phì cười, quay sang bảo A Hành: “Ta thấy con nha đầu đó cứ len lén liếc con, chắc có chuyện gì muốn nói, con qua xem xem!”
A Hành cười vâng dạ, chạy tới bên Chu Du: “Ngươi tìm ta có chuyện gì thế?”
Chu Du đảo mắt nhìn quanh, thấy không có ai mới lên tiếng: “Đại điện hạ có những thuộc hạ chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức, vương cơ có biết không?”
“Đại ca chẳng nói gì với ta cả, nhưng khỏi nói cũng biết, đương nhiên là có rồi.”
“Trước khi xuất chinh lần này, điện hạ dặn dò nô tỳ khi ngài vắng mặt, nếu có sự gì, nô tỳ phải báo cáo vương cơ.”
A Hành nghe lòng đau thắt lại, lặng thinh giây lát rồi hỏi: “Có chuyện gì khác thường ư?”
Chu Du gật đầu, “Lạ lắm, Di Bành vẫn không ngừng phái người đi điều tra chuyện của vương cơ và Xi Vưu, còn bỏ rất nhiều tiền mời một vị vu sư tinh thông y thuật từ Thần Nông tới, nghe nói người này rất giỏi chuẩn đoán thai phụ.”
A Hành tái mét mặt, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.
Chu Du mau miệng hỏi ngay: “Vương cơ làm sao thế?”
A Hành ráng định thần lại, căn dặn Chu Du: “Chuyện này nhất định không được cho ai biết đâu đấy.”
“Nô tỳ rõ rồi.”
A Hành trầm ngâm nghĩ ngợi, xem tình hình này, chắc hẳn Di Bành đã nghi ngờ nàng có mang với Xi Vưu, nhưng hắn định lợi dụng chuyện này thế nào để hãm hại cả nhà nàng, mới là vấn đề đáng lo ngại.
“Chu Du, người giúp ta tìm mấy vị thảo dược được không?”
Chu Du cười đáp: “Chuyện khác nô tỳ không biết, chứ tìm thảo dược thì dễ như trở bàn tay, dù vương cơ muốn kỳ hoa dị thảo nào, nô tỳ cũng tìm được hết.”
A Hành liền ghé tai Chu Du kể tên mấy vị thảo dược cần tìm, càng nghe, vẻ mặt ả càng kinh ngạc, nhưng từ lâu đi theo Thanh Dương, ả sớm đã tập được thói quen nói ít làm nhiều, chỉ yên lặng vâng lời.
Căn dặn Chu Du xong, A Hành sai A Tệ và Liệt Dương cùng ả đi tìm thảo dược.
Đợi bọn họ đi khuất, vẻ trấn tĩnh trên mặt A Hành cũng hoàn toàn tiêu tan, chỉ còn lại sầu thương vô hạn.
Nàng thẫn thờ rút Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, hoa vẫn tươi thắm như xưa mà người tặng hoa giờ nơi đâu?
Suốt một năm trời, Thần Nông, Hiên Viên và Cao Tân đều sai người ráo riết lùng sục khắp nơi, nhưng Xi Vưu vẫn bóng chim tăm cá. Người người đều cho rằng hắn đã chết, kể cả Thiếu Hạo cũng vậy, chỉ mình nàng một mực không tin, dù tất cả mọi nơi có thể tìm, Liệt Dương và A Tệ đã tìm hết, mà Xi Vưu vẫn biệt tăm.
Có lẽ nàng khăng khăng giữ lấy chấp niệm ấy, vì chẳng dám nhìn thẳng vào sự thật đó thôi.
Nàng giơ Trụ Nhan hoa lên khẽ hỏi: “Chàng đang ở đâu? Chúng ta sắp có con rồi đó, chàng có vui không? Ta lo cho chàng lắm.”
Cánh hoa run run trước gió, lặng câm.
Hai hàng nước mắt lăn dài trên má A Hành, nhỏ xuống Trụ Nhan hoa, nhuộm thêm sắc thắm cho đóa hoa kiều diễm.
Hoàng Đế chính thức công bố với triều thần, cử Xương Ý tới Thần Nông tộc thay Thanh Dương cầu hôn.
Xương Ý tưởng Di Bành sẽ phản đối kịch liệt, nào ngờ hắn lại tích cực phối hợp, cùng bàn bạc hoạch định việc cầu hôn, còn chủ động đứng ra xin đi cùng hỗ trợ Xương Ý.
Hoàng Đế xét thấy tình hình hiện giờ rất phức tạp, Xương Ý lại không giỏi ứng biến, phải phái thêm người cơ trí quyền mưu theo hỗ trợ là đương nhiên, nhưng Di Bành thì không ổn, thành ý của hắn chẳng đáng tin chút nào.
Đương lúc phân vân do dự, Di Bành lại tâu: “phụ vương, nhi thần thấy hay nhất là cử tiểu muội đi cùng, muội ấy thân phận cao quý, Thần Nông tộc lại coi trọng địa vị xuất thân, ắt trọng vọng muội ấy hơn bọn con nhiều, như vậy càng tỏ rõ thành ý.”
Hoàng Đế nghĩ bụng, A Hành quả là lựa chọn hay, tuy là vương cơ của HiênViên tộc, nhưng cũng là vương phi Cao Tân, thân phận trung lập, những chuyện Hiên Viên không tiện làm đã có A Hành ra mặt, hơn nữa A Hành đi cùng, ắt Di Bành chẳng dám giở trò.
Xương Ý lập tức phản đối: “Tiểu muội nán lại Triêu Vân phong là để chăm sóc mẫu hậu, mấy hôm nay muội ấy đã thu dọn hành trang, ngày một ngày hai sẽ quay về Cao Tân, sao theo nhi thần đến Thần Nông được.” Thấy Hoàng Đế tỏ vẻ không đồng tình, Xương Ý chẳng kịp suy nghĩ, vội bồi thêm: “Dạo này tiểu muội hơi khó ở, không tiện bôn ba vất vả.”
Di Bành khẩn trương đến nỗi suýt nữa thì giậm chân, cao giọng nói ngay: “Tiểu muội không được khỏe ư? Sao không mời thầy thuốc? Nếu tin này truyền đến Cao Tân, người ta chẳng chê Tứ ca bỏ mặc tiểu muội, mà sẽ cười Hiên Viên chúng ta thất lễ cho coi. Phụ vương, xin người gọi thầy thuốc tới chẩn bệnh cho tiểu muội đi!”
Hoàng Đế gật đầu khen phải, vừa định hạ chỉ, đột nhiên từ ngoài cung điện vang lên tiếng A Hành: “Đa tạ Cửu ca quan tâm, có điều chẳng cần phiền tới thầy thuốc, mấy hôm trước muội hơi khó ở, nhưng hôm nay đã khá rồi.” A Hành thong dong bước vào, hành lễ với Hoàng Đế, “Phụ vương, để nhi thần theo Tứ ca đến Thần Nông, con có chút giao tình với Vân Tang, nếu xảy ra chuyện gì cũng dễ bàn bạc hơn.”
Hoàng Đế chuẩn y lời nàng, lệnh cho ba người mau mau thu xếp hành trang, gấp rút lên đường.
Trước khi ba người lui ra, Hoàng Đế còn lườm Di Bành, cảnh cáo: “Chuyện này liên quan đến vận mệnh Hiên Viên, mọi việc đều phải nghe theo sắp xếp của ta, chỉ được thành công, không được phép thất bại, nếu có gì sơ sảy, ta sẽ trị tội cả con và Xương Ý đấy.”
Di Bành cao giọng vâng dạ.
Về tới Triêu Vân phong, Xương Ý quay sang trách A Hành: “Muội biết mình đang mang thai, sao còn đòi đi Thần Nông?”
Dù cho Xương Ý biết Di Bành phát hiện ra việc nàng có thai, đang lăm le thăm dò từng bước thì cũng chẳng giúp ích được gì, ngược lại chỉ chuốc thêm lo lắng cho Tứ ca nên A Hành giấu tiệt chuyện đó, “Muội đang mang thai chứ đâu có sinh bệnh. Chuyện này nhìn bề ngoài là thông gia, nhưng thực ra là tranh giành vương vị, Di Bành đời nào chịu giúp đỡ chúng ta, chi bằng muội đi cùng huynh, có gì cũng tiện chăm sóc lẫn nhau.”
“Ta hiểu, tiếc rằng ta chẳng được giỏi giang như Đại ca, khiến muội phải nhọc lòng lo lắng.”
A Hành nũng nịu ngả đầu vào vai anh trai, “Tứ ca ngốc ạ, huynh là chỗ dựa tinh thần của muội kia mà.”
Xương Ý khẽ mỉm cười, vòng tay ôm lấy em gái, tựa đầu vào đầu nàng.
Sáng hôm sau, Xương Ý, A Hành và Di Bành cùng khởi hành đi Thần Nông sơn. Đồng thời, Hiên Viên Hưu và Ứng Long phụng mệnh Hoàng Đế, dẫn đại quân Hiên Viên tiếp tục tiến về phía Đông.
Sau khi Du Võng từ trần, các chư hầu vốn ngỡ rằng mình có thể tự lập làm vương lại phải đối mặt với Hoàng Đế đánh đâu thắng đó, đâm ra khiếp sợ, thấy những kẻ đầu hàng Hiên Viên đều được hậu đãi, thì khó tránh xiêu lòng muốn quy hàng. Dẫu sao trước sự uy hiếp của tử vong, cũng chẳng mấy ai đủ can đảm xem nhẹ mạng sống, coi chết như về cội.
Nghĩ sao làm vậy, mấy vị quốc chủ đức cao vọng trọng liền liên hệ với nhau, tập hợp các nước chư hầu về Thần Nông sơn, cùng bàn bạc phương cách đối phó với Hiên Viên tộc, đưa ra ý kiến nên chiến đấu hay nghị hòa.
Cộng công đã thuyết phục các chư hầu đến bã cả bọt mép rằng Thần Nông hiện giờ chia năm xẻ bảy, thân ai nấy giữ nên mới núng thế trước Hiên Viên, chỉ cần mọi người đoàn kết một lòng, rất có khả năng sẽ đánh bại được quân thù.
Ai nấy đồng loạt gật gù, tán thưởng Cộng Công phân tích rất có lý.
Cộng Công mừng rỡ đề nghị các chư hầu họp nhau lại cử ra một vị lãnh tụ rồi chích máu ăn thề, nguyện nghe theo lệnh của người đó, có vậy mới đẩy lùi được Hoàng Đế.
Nghe vậy, chư hầu các nước đều nín lặng làm thing, thậm chí có kẻ còn buông lời châm chọc Cộng Công, “Ra rả suốt nửa ngày đòi toàn tâm toàn ý vì Thần Nông, hóa ra là ngài muốn xưng vương.” Một người vừa lên tiếng, lập tức cả đám hùa theo phụ họa, lôi cả lời nhận xét của Viêm Đế đời trước về Cộng Công “chỉ là tướng mạnh, chẳng phải soái tài” ra dẫn chứng, chỉ sợ có kẻ tiến cử Cộng Công.
Cộng Công vốn mạnh mẽ ngang tàng, vậy mà nghe chúng nói cũng uất trào máu mắt, cuối cùng, hắn cũng hiểu vì sao Chúc Dung không tới tham gia hội nghị hôm nay, xem ra y đã biết tỏng bụng dạ đám người này từ lâu.
Càng nghe càng thấy rát tai, Cộng Công phẫn uất lập ngay lời thề trước mặt mọi người: “Nếu Cộng Công ta có ý xưng vương đoạt quyền, sẽ bị sét đánh tan xác, không được chết yên lành! Xin các bậc liệt tổ liệt tông của Thần Nông làm chứng, thần Cộng Công đã dốc hết sức mình, nếu một mai nước mất nhà tan, Cộng Công này chỉ còn cách lấy thân báo quốc mà thôi!” Nói rồi hắn giận dữ giũ áo đi thẳng.
Bàng hoàng trước khí thế của Cộng Công, các chư hầu cũng lặng phắc hồi lâu, mãi sau mới có người lên tiếng: “Đại quân Hiên Viên sắp kéo đến Thần Nông sơn rồi, chúng ta phải mau chóng bàn bạc tìm cách đối phó đi chứ!”
Tức thời mọi người lại rào lên tranh luận âm ĩ, nhưng ai nấy chỉ biết chăm chăm lo cho an nguy lợi ích của riêng mình, rất sợ bị kẻ khác chiếm phần hơn, để thiệt cho mình, bàn cãi chán chê chẳng đâu vào đâu cả.
Vân tang lặng thinh ngồi nghe bọn họ cãi cọ, đồng thời quan sát thật kỹ vẻ mặt từng người, trong khi Mộc Cận ngồi bên đã giận xanh mặt, mấy lần định xông ra mắng mỏ, đều bị Vân Tang ngăn lại. Hậu Thổ đanh mặt đứng cạnh hai người, trông như thể hộ vệ.
Đột nhiên, một cung nhân cuống quýt chạy vào bẩm báo: “Đại quân Hiên Viên chỉ còn cách Trạch Châu thành sáu mươi dặm nữa thôi!”
Trạch Châu là hàng phòng ngự cuối cùng của Chỉ Ấp, nếu Trạch Châu bị phá, Hiên Viên có thể đánh thẳng vào Chỉ Ấp, cũng có nghĩa là Thần Nông sẽ bị xóa tên trên bản đồ đại hoang.
Kẻ tiểu nhân đê tiện đến đâu cũng khó tránh đau lòng vì mất nước, não ruột mà thương thân, tất cả chư hầu lập tức im phăng phắc.
Giữa bầu không khí trầm lặng đầy đau thương và hoảng loạn, thị vệ bỗng chốc vào thông báo có Hiên Viên Xương Ý cầu kiến.
Cả hội nghị đưa mắt nhìn nhau, vẻ căng thẳng và sợ hãi hằn lên gương mặt, ai nấy đều lúng túng như gà mắc tóc, chẳng biết phải làm sao, đúng lúc này, Vân Tang ung dung hạ lệnh: “Mời vào!”
Xương Ý đi trước, Di Bành và A Hành nối gót tiến vào. Trong các vương tử Hiên Viên, Xương Ý có phong độ xuất chúng hơn cả, y nói năng khiêm tốn, cử chỉ hòa nhã, không hề có vẻ ngạo nghễ của kẻ thắng cuộc, lại am hiểu lễ tiết Thần Nông nên chẳng mấy chốc đã chiếm được thiện cảm của mọi người ở đó.
Hậu Thổ dò hỏi: “Vương tử lặn lội đường xa, hẳn không chỉ tới để hàn huyên, chẳng hay ngài đến có chuyện gì vậy?”
Xương Ý đưa mắt nhìn khắp lượt chư hầu xung quanh, thong thả đáp: “Ta phụng mệnh phụ vương, thay Đại ca Hiên Viên Thanh Dương tới cầu hôn cùng Thần Nông tộc, phụ vương ta nói, một giọt máu đào hơn ao nước lã, chỉ có gắn kết bằng huyết mạch mới hóa giải được chiến sự, giúp thiên hạ thái bình.”
Xương Ý vừa dứt lời, các lộ chư hầu lập tức chụm đầu ghé tai lại bàn bạc, cả đại điện toàn tiếng xì xầm to nhỏ. Những kẻ đã ngả về phe Hoàng Đế liền chớp thời cơ thể hiện, ra vẻ thấu hiểu đại nghĩa, phân tích thiệt hơn, nào là Thanh Dương tương lai đăng cơ Hoàng Đế, nếu phong một nữ tử Thần Nông làm vương hậu, cũng có nghĩa là về sau một vị vương tử mang huyết mạch Thần Nông sẽ trở thành bá chủ thiên hạ này. Giữa tiếng thì thào bàn bạc, vài kẻ đã xiêu xiêu nhưng vẫn e ngại đầu hàng, sợ có lỗi với liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc cũng bắt đầu vắt óc tìm một lý do đàng hoàng để bao biện chi hành vi của mình.
Xương Ý tươi cười đợi mọi người bàn bạc chán chê, mới lên tiếng hỏi: “Không biết ý các vị thế nào?”
Quốc vương Quân Tử quốc lớn tuổi nhất ướm hỏi: “Chẳng rõ Thanh Dương điện hạ định cầu hôn vị cô nương nào?”
Thoạt nghe thấy câu này, tất cả các chư hầu mới rồi còn chụm đầu kề tai thảo luận, lập tức nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, vội vã tách hẳn ra, giữ khoảng cách, cảnh giác nhìn nhau.
Xương Ý đáp: “Phụ vương ta nói, Thanh Dương là Đại vương tử của Hiên Viên, nổi danh thiên hạ, chính phi của huynh ấy đương nhiên cũng phải có thân phận tôn quý, tài đức vẹn toàn, bởi vậy ta thay mặt huynh trưởng, xin được cầu hôn với Trưởng vương cơ.”
Ánh mắt mọi người liền đổ dồn về phía Vân Tang, lần đầu tiên họ nhất loạt đồng ý nhìn nhau, không ai phản đối cả, nào ngở Hậu Thổ đột ngột đứng phắt dậy, cao giọng: “Nhất định không được!”
Cả đại điện tức thì rào lên như ong vỡ tổ, tranh cãi náo loạn.
Hậu Thổ đưa mắt khinh miệt nhìn khắp lượt chư hầu, lắc đầu cười nhạt, “Đúng là một đám ô hợp thiển cận!” Đoạn gã quay sang Vân Tang và Mộc Cận: “Để thần hộ tống hai vị vương cơ về Tiểu Nguyệt đỉnh.” Mộc Cận lập tức đỡ lấy Vân Tang bước ra ngoài.
Thấy bọn người kia định ngăn hai nàng lại, Hậu Thổ chậm rãi giơ tay lên, một luồng xoáy cát dữ dội như mãnh thú thét gào đòi mạng cuồn cuộn giữa lòng bàn tay, gả lạnh băng cất tiếng: “Các người muốn cản đường ta?”
Hậu Thổ dáng vẻ văn nhã, dung mạo tuấn tú, xưa nay vẫn bị người ta cười cợt chế nhạo, nhưng mấy trăm năm trước, gã suýt nữa đã lấy mạng Chúc Dung, từ đó trở đi, mọi người mới giật mình nhận ra đằng sau vẻ ngoài thanh mảnh yếu ớt ấy là một kẻ tàn nhẫn hiểm độc hơn rắn rết.
Gã lừ mắt nhìn khắp đại điện, lập tức các chư hầu oai trấn một phương đều nín thin thít, sợ sệt lùi lại nhường đường.
Hậu Thổ hộ tống Vân Tang và Mộc Cận băng qua đám đông bước ra khỏi điện.
Bấy giờ, mọi người trong đại điện mới lấm lét nhìn nhau, bọn họ tính toán đủ đường, lường trước mọi chuyện, nào ngờ Vân Tang lại không đồng ý.
Hồi lâu, quốc vương Chu Nhiêu quốc đành lựa lời: “Vương tử lặn lội đường xa, mời đi nghỉ ngơi cho khỏe, chuyện này quá đỗi bất ngờ nên vương cơ thẹn thùng đó thôi, chúng tôi nhất định sẽ thuyết phục Trưởng vương cơ.”
Xương Ý thầm thở dài trong dạ, dẫn Di Bành và A Hành rời khỏi đó.
Vì là khách nên họ được sắp xếp ngụ tại một đỉnh núi ngoài rìa Thần Nông sơn chứ không được vào trung tâm.
Giữa đêm khuya, A Hành một thân một mình leo lên chóp núi, trông vời Tiểu Nguyệt đỉnh thấp thoáng đằng xa, A Tệ nằm rạp bên cạnh nàng, cũng ngơ ngẩn trông về Tiểu Nguyệt đỉnh. Liệt Dương bản tính lạnh lùng, thấy hai kẻ kia cứ ngây ra, thật là vô vị, bèn biến trở lại nguyên hình, chiếm lấy tổ của hai con quạ, đuổi hết chúng đi rồi ngủ khò.
Một lúc sau, Vân Tang cưỡi Cửu Sắc lộc từ rừng sâu chạy đến, thấy Liệt Dương đang ngủ khò, còn A Tệ hiền hòa nằm dài dưới đất. Giác quan của muôn thú hết sức nhạy bén, Cửu Sắc lộc đánh hơi thấy A Tệ có hơi hướm khác thường, cứ sợ hãi quanh quẩn mãi, không dám tiến lại gần A Hành.
A Hành nhận ra ngay, liền hạ giọng bảo A Tệ: “Mày ra chỗ khác chơi đi.” Dứt lời, nàng chẳng buồn quay lại, vung tay ném vèo một viên sỏi vào cái tổ quạ lủng lẳng trên cành, phá tan giấc ngủ của Liệt Dương, nó trừng mắt lườm nàng rồi hậm hực bay vút khỏi tổ.
Bấy giờ Cửu Sắc lộc mới dám tiến lại. Vân Tang từ trên mình nó nhảy xuống, nghi hoặc nói, “Lạ thật, trước đây tọa kỵ của ta đâu có sợ A Tệ, sao giờ lại sợ đến nỗi không dám lại gần thế nhỉ?”
A Hành chẳng buồn giấu giếm Vân Tang, lập tức đi thẳng vào vấn đề, “Tỷ tỷ có tin gì về Xi Vưu không?”
Vân Tang buồn bã lắc đầu, ngồi xuống cạnh A Hành, “Mộc Cận đã phái người tìm khắp đại hoang suốt một năm nay mà hắn vẫn biệt tăm. Ta cũng không tin rằng hắn đã chết, nhưng với tính tình của hắn, chỉ cần còn một hơi thở, nhất định sẽ không khoanh tay ngồi nhìn Thần Nông ra nông nỗi này đâu.”
A Hành đau xót đặt tay lên bụng, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn Tiểu Nguyệt đỉnh ẩn hiện giữa mây mù.
Chính tại nơi đó, nàng đã mở lòng thừa nhận tình cảm với Xi Vưu, cùng hắn hẹn thề hàng năm gặp gỡ dưới cội anh đào. Lại sắp đến một mùa hoa đào nở, lẽ nào năm nay chàng định thất hẹn nữa sao? Chàng từng thề với ta sẽ không có lần thứ ba kia mà!
Vân Tang khẽ an ủi: “Muội muốn khóc thì cứ khóc đi, có ta ở đây!”
A Hành lắc đầu: “Xi Vưu không chết đâu mà! Hắn đã hứa với muội, tính mạng hắn chỉ thuộc về một mình muội mà thôi!”
Việc đến nước này mà A Hành vẫn giữ vững lòng tin, chẳng hề nao núng, không khỏi khiến Vân Tang cảm phục. A Hành gắng lấy lại tinh thần, hỏi sang chuyện khác: “Phụ vương muội đề nghĩ kết thông gia, tỷ thấy thế nào? Nếu tỷ không bằng lòng, chúng ta có thể tìm cách tháo gỡ.”
Vân Tang mở miệng toan nói, nhưng bây giờ đã chẳng còn như lúc trước, tuy mọi chuyện không liên hoan tới A Hành, nhưng dù sao nàng cũng là vương cơ Hiên Viên, giữa bọn họ là trùng trùng thù nhà nợ nước, có rất nhiều điều không thể nói ra, đành mỉm cười đáp: “Chính phi của Thanh Dương rất có thể sẽ trở thành mẫu nghi thiên hạ, trên đời này có mấy ai nỡ cự tuyệt lời cầu hôn của y?”
“Vậy tỷ và Nặc Nại…”
Vân Tang đanh mặt lại: “Nặc Nại mà ta quen biết đã chết từ lâu rồi! Nặc Nại bây giờ chỉ còn là cái bị thịt say sưa tối ngày, táng tận lương tâm thôi!”
A Hành hoảng sợ im bặt, nàng cũng biết Nặc Nại đắm chìm trong rượu, còn liên tục sử dụng ngọc hồng thảo, thứ thảo dược làm mê mẩn tâm trí, lâu ngày thành nghiện, giờ đã trở thành phế nhân. Nàng từng nài nỉ Thiếu Hạo đi khuyên nhủ y, Thiếu Hạo liền đưa nàng cùng tới gặp Nặc Nại, nào ngờ y cao giọng mắng chửi cả Thiếu Hạo rồi quỳ sụp xuống trước mặt nàng, khóc lóc kêu gào xin thuốc để thỏa cơn nghiền.
Thấy A Hành nín thít, Vân Tang dịu nét mặt, trở lại chủ đề cũ: “Hai nhà kết thông gia là chuyện trọng đại, muội muội ngoan, muội giúp ta tranh thủ chút thời gian để cân nhắc được không?”
“Được thôi.”
Vừa nói đến đó, Hậu Thổ đã cưỡi tọa kỵ Hóa Xà tìm đến, trông thấy Vân Tang, gã thở phào nhẹ nhõm: “Vương cơ đột nhiên biến mất làm tôi và Mộc Cận lo quá.”
“Ta không vui nên mới tìm muội muội chuyện phiếm giải sầu thôi mà.”
Hậu Thổ quay sang hành lễ với A Hành, ánh mắt vẫn chân thành tha thiết, nhưng thái độ đã khách sáo hơn nhiều. Trong lòng gã, nàng vẫn là Bạt tỷ tỷ, nhưng nàng cũng chính là vương cơ của Hiên Viên tộc, những kẻ đem quân xâm lược Thần Nông, giết chết Du Võng. Gã chẳng biết đối diện với nàng ra sao, đánh lấy thái độ khách sáo xa lạ để che giấu trái tim mình.
Biểu hiện của Hậu Thổ khiến A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, gượng cười đáp: “Tướng quân, mời.” Cũng khách khí, cũng xa lạ như thế.
Vân Tang liền gọi Cửu Sắc lộc lại, “Chúng ta đi thôi.”
A Hành vẫn quyến luyến Vân Tang, nhưng không sao mở miệng giữ nàng được. Cái chết của Du Võng đã chắn ngang giữa hai người, khiến A Hành chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Vân Tang nữa.
Thấy Thần Nông tộc lần lữa trước đề nghị kết thông gia của Hoàng Đế, A Hành bèn hẹn gặp riêng Vân Tang, nhưng chẳng thu được kết quả gì, xem ra nội bộ Thần Nông cũng đang xáo trộn. Xương Ý liền tấu trình lên Hoàng Đế xin thư thả cho một thời gian, có điều chẳng rõ Di Bành đã ton hót những gì khiến Hoàng Đế bực bội, viết thư cho A Hành nếu không có kết quả thì để Di Bành toàn quyền xử lý chuyện này.
Để bức Trạch Châu đầu hàng, Hoàng Đế đã cho cắt đứt nguồn nước, nhưng thành chủ Trạch Châu vẫn kiên quyết cố thủ bên trong, chẳng buồn ra nghênh chiến, chỉ chuyên giở ngón đánh du kích, bắn lén và ám sát khiến binh sĩ Hiên Viên ăn không ngon, ngủ không yên. Hoàng Đế nổi giận truyền lệnh, nếu Trạch Châu còn không đầu hàng thì lập tức cho tấn công vào thành.
A Hành căn vặn Liệt Dương: “Mày đi Trạch Châu thăm dò, thấy tình hình thế nào?”
Liệt Dương thản nhiên đáp: “Cứ đợi xem thành công đi! Tuy Trạch Châu không có địa thế hiểm trở như Phản thành, nhưng cũng là cửa ngõ phía Bắc của đô thành Thần Nông, được xây dựng vô cùng kiên cố, dễ thủ khó công.”
Xương Ý chen vào: “Chẳng lẽ không thể thuyết phục thành chủ đầu hàng được ư? Phụ vương rất giỏi lung lạc lòng người, nhất định lần này cũng tìm ra cách hạ thành không tốn một binh một tốt.”
Liệt Dương cười nhạt: “Du Võng hiền chứ không ngu, y thừa biết tầm quan trọng của Trạch Châu nên đã chọn một người do Xi Vưu huấn luyện, đề bạt làm thành chủ, chẳng rõ tên thật của kẻ đó là gì, chỉ biết hắn thạo điều khiển gió, được xưng tụng là Phong Bá.” Dứt lời Liệt Dương nhún mình nhảy vọt lên cành cây, nhẹ tựa lông hồng, vừa đu lên cành cây, vừa hả hê nói tiếp: “Xi Vưu là đồ vô lại, huấn luyện ra bọn thủ hạ rặt giống vô lại, để chiến thắng, thủ đoạn vô sỉ hạ lưu cỡ nào cũng không từ, có điều xưa nay chưa nghe nói người của hắn biết đầu hàng bao giờ cả!”
Xương Ý phì cười, hỏi tiếp: “Vậy nếu tấn công vào thành, Hiên Viên có tốc chiến tốc thắng được không?”
Liệt Dương lắc đầu cười hăng hắc, “Không thể xem thường thực lực của Phong Bá được! Hơn nữa, nửa năm trước hắn còn kết bái với một kẻ đến từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia, được gọi là Vũ Sư, nghe nói rất giỏi hô mưa và rèn binh khí. Phong Bá và Vũ Sư trợ giúp, e rằng Hiên Viên muốn hạ Trạch Châu cũng đại tổn nguyên khí.”
Xương Ý bất lực đưa mắt nhìn A Hành, nàng liền lên tiếng: “Nhất định Di Bành đã giở trò với Thần Nông tộc, nếu họ đồng ý kết thông gia, chẳng phải chiến sự ở Trạch Châu cũng có thể tạm thời hóa giải ư? Việc cấp bách hiện nay là tra xem Di Bành rốt cuộc đã làm gì, nhân lúc hắn đang ở Trạch Châu, muội sẽ đi Thần Nông sơn thăm dò.”
Xương Ý lập tức cản lại: “Để ta đi! Hiện giờ muội… phải giữ gìn sức khỏe.”
“Vậy cũng được.”
Xương Ý dắt thuộc hạ vội vã lên đường. A Hành ngẩng đầu nhìn Liệt Dương, vẻ nài nỉ nhưng nó ngoảnh phắt đi, vờ như không thấy.
Nàng liền dịu giọng dỗ dành: “Người bên cạnh Tứ ca đều là cao thủ Nhược Thủy tộc, chẳng ngại đấu tay đôi, nhưng đám hán tử Nhược Thủy đó rất thật thà trung hậu, trong khi Di Bành lại là kẻ nham hiểm, ngươi đi theo quan sát tình hình giùm ta với.”
Liệt Dương trợn trừng cặp mắt xanh biếc: “Cô có ý gì đây? Định chửi xéo ta là chim nham hiểm hả?”
A Hành cười trừ, chắp tay vái Liệt Dương lia lịa. Liệt Dương hậm hực lườm nàng rồi biến lại nguyên hình, bay vút đi.
A Hành vừa vào phòng ngồi xuống đã thấy một con anh vũ bay vèo qua cửa sổ, đậu xuống trước mặt, véo von nói tiếng người: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”
A Hành đứng phắt dậy, chợt thấy mắt hoa cả lên, choáng váng suýt ngã.
Anh vũ ngây ngơ giơ chân gãi gãi đầu, lặp lại lần nữa: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”
Trạch Châu liên quan mật thiết tới an nguy của Chỉ Ấp cũng như của Thần Nông sơn, chỉ cần Xi Vưu còn một hơi thở, nhất định hắn sẽ không để mất Trạch Châu, lẽ nào hiện giờ Xi Vưu ở Trạch Châu thật ư?
A Hành nghiến răng quyết định dù gì cũng phải đi xem thế nào, bèn gọi A Tệ bay về phía Trạch Châu.
Gần tới Trạch Châu, nàng chợt nghe thấy hồi kèn triệu tập binh sĩ của Hiên Viên, liền tái mét mặt. Sắp công thành đến nơi rồi! Rốt cuộc đây là lệnh của phụ vương, hay là chủ trương Di Bành tự tiện đưa ra?
Đột nhiên, phía Tây Bắc Trạch Châu thành vút lên một tiếng sáo quen quen, chính là khúc Thiên Vấn mà Xi Vưu sáng tác, được lưu truyền rộng rãi giữa đám nam nhi Cửu Lê.
Tiếng sáo cứ phập phù lúc vang vang, khi lìm lịm, như thể người tấu đang bị thương. A Hành lắng nghe một chốc rồi thúc A Tệ lần theo tiếng sáo bay tới.
Lần theo tiếng sáo lúc bổng lúc trầm, A Hành bay thẳng về phía Tây Bắc, bỏ lại sau lưng Trạch Châu thành, bỏ lại sau lưng núi non trùng trùng điệp điệp, mãi mới tìm thấy một gã đàn ông thân vận hồng y, tóc đầu xơ xác, đứng giữa hồ thổi sáo.
Gió từ đồng hoang thổi lại, phát ra những tiếng ù ù như khóc, màu tóc đen của hắn cùng vạt áo hồng bay phần phật. Nghe tiếng A Tệ gọi, hắn liền ngẩng lên nhìn, nhoẻn cười âu yếm, mày kiếm chấm tóc mai, gương mặt vẫn còn tái mét vì bệnh, quả đúng là Xi Vưu.
A Hành chạy như bay về phía Xi Vưu, hắn cũng dang tay ra đón lấy nàng vào lòng, nào ngờ A Hành khựng lại quát khẽ: “Ngươi ruốt cuộc là ai?”
Người đàn ông phá lên cười: “Vừa nhìn đã phát hiện ra rồi à! Hẳn cô và Xi Vưu là đôi tình nhân gần gũi thân mật nhất trên đời này ấy nhỉ! Rốt cuộc ta sơ hở ở đâu hả?”
Thấy A Hành nhấc tay, lòng bàn tay lấp loáng ánh sáng, hắn cười nhạt: “Ta khuyên cô đứng động võ, để đứa bé sống thêm khắc nào hay khắc nấy.”
A Hành tái mặt, hắn lại hỏi: “Là con của ta ư?”
A Hành giận dữ vung tay đánh tới, hắn vội nghiêng người né tránh, nhưng vạt áo vẫn cháy sém một mảng.
“Theo ta được biết, Hiên Viên vương cơ tu luyện mộc linh cơ mà, đây đâu phải là pháp thuật mộc linh. Rốt cuộc trong hai trăm năm ốm liệt giường, cô đã xảy ra chuyện gì hả?”
A Hành lạnh lùng: “Ta không muốn giết người, nhưng lần này ta quyết không tha cho ngươi, bản lĩnh của ngươi cũng khá lắm, đáng lẽ chẳng nên đi theo Di Bành.”
Gã đàn ông cười ha hả: “Ta vốn cũng thương hương tiếc ngọc định nương tay đấy, tiếc rằng cô không thèm, vậy ta đành lấy mạng cô thôi.” Nói rồi hắn bắn một quả cầu lửa lên không, cầu lửa nổ bùng giữa trời không, biến thành vô số con cá đỏ rực…
Xa xa cuối chân trời bỗng vang lên tiếng nổ ì ầm như sấm động. Chỉ trong giây lát, một luồng sáng trắng tựa ngân xà từ mạn Tây Bắc uốn lượn đổ ập về phía này.
A Hành thoáng sững sờ rồi nhận ra đó chính là sông Hoạch Trạch bị ngăn dòng, thì ra phụ vương nàng cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu không chỉ để lung lạc sĩ khí, mà còn để công thành.
Nàng vội hô A Tệ chuẩn bị chuồn, chợt nghe gã đàn ông cười nói: “Di Bành thận trọng thật, đó không chỉ là nước của Hoạch Trạch, mà còn bao gồm toàn bộ nước của Thấm hà và Đan hà nữa kia, hắn không định dùng nước tấn công Trạch Châu, mà định nhấn chìm Trạch Châu.”
A Hành bàng hoàng sợ hãi: “Các người điên rồi! Làm vậy sẽ bị trời phạt đó!”
Xi Vưu phá lên cười, A Tệ cõng A Hành toan bay vụt đi, nào ngờ hắn lắc mình một cái đã chắn trước mặt A Tệ, cười khẩy. A Tệ sợ sệt không dám giao đấu chính diện, chỉ biết luồn Đông lách Tây chạy trốn nhưng vô ích.
A Hành chẳng hiểu nguyên do, cứ một mực thôi thúc A Tệ. Cảm nhận được tử vong đang đến gần, ma tính trong người A Tệ thình lình bộc phát, lấn át cả nỗi sợ bản năng, nó gầm lên một tiếng khiến Xi Vưu giật nảy mình lùi lại, A Tệ liền cướp đường bay vút lên.
Gã đàn ông nhìn theo bóng họ, dang tay thở dài: “Muộn rồi!”
Luồng nước cuồn cuộn ngất trời đổ ập xuống như sấm sét, cuốn phăng A Hành và A Tệ, tách lìa cả hai.
Nước là khởi nguồn của sự sống, nhưng khi cuội nguồn hóa thành quái vật nuốt chửng sinh mệnh thì chẳng thứ gì ngăn nổi. Bất kể A Hành thúc động bao nhiêu linh lực, dòng nước vô cùng vô tận này đều hấp thu hết bấy nhiêu, không để sót mảy may.
A Hành đành bất lực cuộn tròn người lại, gắng bảo vệ đứa bé trong bụng.
Nhưng khắp bốn bề đều cuồn cuộn nước lũ, không sao nhìn thấy phương hướng, mấy lần nàng toan rẽ nước nhô lên, nhưng lại bị sóng dồi đẩy thốc xuống đáy nước.
Càng lúc A Hành càng đuối dần, chỉ biết dồn tất cả linh lực còn lại vào bụng, che chở cho đứa con đang thành hình.
Tới lúc sống chết cách nhau một đường tơ, mọi thứ đều chẳng còn quan trọng nữa, trước mắt A Hành toàn là hình ảnh của Xi Vưu…
Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Chàng đã hứa sẽ bảo vệ ta, nhưng giờ chàng đâu rồi?
A Hành bị hút vào xoáy nước quay mòng mòng đến choáng váng đầu óc, dòng nước còn liên tục đập mạnh vào bụng nàng, khiến nàng cảm thấy đứa bé đang giãy đạp. Đây là lần đầu cái thai mẩy động, đáng lẽ phải vui mừng, nhưng A Hành chỉ thấy nỗi bi ai và kinh hoàng trước cái chết.
Con của chúng mình, con của chúng mình… Xi Vưu, chàng làm cha rồi đấy! Chàng phải luôn luôn bảo vệ cho con mới đúng chứ?
A Hành cắn mạnh vào lưỡi để máu và cơn đau giữ cho mình khỏi thiếp đi, dồn tất cả linh lực còn sót lại vào bụng.
Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Tại sao cứ để ta một thân một mình chống chọi với mọi chuyện? Vì sao lúc ta cần chàng nhất chàng đều không có mặt?
Hơi thở của A Hành cứ yếu dần đi, đứa bé trong bụng đã được mười hai tháng, bắt đầu có trực giác, dường như nó cũng cảm nhận được nguy cơ nên ra sức đạp nàng, nài nỉ nàng cứu nó, nhưng nàng… Nàng đã cạn sức tàn hơi, cả người cứng đờ, không sao cử động nổi, chỉ biết giương mắt nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn đổ ập xuống đầu mình.
Xi Vưu… Xi Vưu…
Trái tim A Hành cứ lạnh dần, mắt nàng từ từ tối sầm lại, bên tai láng máng nghe thấy tiếng khóc của trẻ nít, nước mắt trào ra thành dòng, hòa vào dòng nước lũ lạnh lẽo vô tình, tan đi không dấu vết.
Xi Vưu, ta hận chàng!