Lâm Gia Thái Bảo
-
Thuỳ vẫn ngơ ngác: “Là sao anh?”
Anh Hùng nói: “Là giờ mình đi xuống dưới đó!”
“Nhưng anh ơi, dây đâu mà leo xuống bây giờ?”
Sợi dây lúc nãy có lẽ bị vướng vào chân con nhện nào đó nên bị lôi đi rồi. Thùy loay hoay kiếm mà không thấy đâu hết. Anh Hùng vỗ vai cô, chỉ về phía con Thiên Mẫu. Thùy kinh ngạc: “Ý anh là leo lên con nhện đó cho nó đu xuống dưới? Anh đùa à?” Tôi thì đã nghe anh Hùng kể về chuyện cưỡi cá sấu băng qua Rừng tràm Trà Sư rồi, nên cũng đoán được phần nào. Tú Linh và Sinh đã rảo bước đến kế con Thiên Mẫu, anh Hùng ra hiệu nhanh lên, Thuỳ háo hức lên trước, tôi thì phải kè gã Tùng, gã cố sống cố chết cũng không dám leo lên, nhưng đuổi gã về thì gã không chịu đi một mình. Sợ trên đường ra gặp hồn ma nào nữa thì chắc đái trong quần, tôi lôi gã lại mé vực rồi mặc kệ, muốn làm gì thì làm, một lúc sau cũng tíu tít chạy theo cả đám. Hít một hơi thật sâu, tôi bước chân lên lưng con nhện. Tôi tưởng rằng nó sẽ mềm mại, nhầy nhụa, đứng không bám chân được nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược, cái lưng con Thiên Mẫu vừa chắc, lại có mấy cái gai tua tủa, không đâm vào chân mà lợi dụng ma sát từ chúng, đứng cực kỳ vững. Con nhện khổng lồ cõng cả bọn năm người trên lưng mà không hề thấy nó nao núng, tơ nhện thì khỏi nói, bình thường đã làm được áo giáp chống đạn, tơ của Thiên Mẫu chắc dùng làm dây trục container được chứ chẳng đùa.
Càng xuống sâu nhiệt độ càng thấp, đứng trên lưng Thiên Mẫu cho nó thả người xuống khoảng mười phút rồi vẫn chưa thấy tới. Từ nãy đến giờ, ở hai bên mép vực, tôi thấy có rất nhiều hốc đá, bên trong lâu lâu lại vang ra âm thanh huýt gió, xuống thêm chút nữa, số lượng những hốc đá này ngày càng dày đặt, Sinh lia ngọn đuốc với phía đó làm tôi hoảng hồn, một con rắn vàng khè, to bằng cổ tay đang len lỏi giữa những lỗ hang, sau đó thì thấy thêm nhiều con nữa, chúng có màu sắc khác nhau: đen, vàng, đỏ, xanh lơ đủ cả, tròng mắt chúng trắng háu, cái lưỡi thụt ra thụt vô nhìn bọn chúng tôi và con Thiên Mẫu. Hình như chúng đang dè chừng, sợ con nhện khổng lồ hết mấy phép, nếu không có con Thiên Mẫu chắc lũ rắn này đã cắn chết cả bọn rồi. Thùy nói: “Lúc nãy mà em đu dây leo xuống chắc…” Tôi cười, không dám tưởng tượng tới cảnh đó.
Một lúc sau cũng đến đáy hang, con Thiên Mẫu nhìn anh Hùng rồi ré lên vài tiếng, nó cúi đầu y hệt lúc ở trên rồi bò lên lại, nó vừa quay đi thì lập tức có hai con nhện Cận Vệ lông vũ đỏ bò tới, như canh cho chúng tôi khỏi lũ rắn vậy. Dưới này không tối như tôi tưởng, anh Hùng bảo Thùy tắt đèn pin rồi nói Sinh chuẩn bị thêm hai cây đuốc nữa, lý do thì lúc trước Sinh có nói rồi, chúng tôi đã qua ải đầu tiên của Bát Quái Động, đến càng gần Ca Lâu Thành thì phải càng thận trọng. Vả lại ba ngọn đuốc là quá đủ ánh sáng, những đốm sáng vàng vọt hắt lên vách tường đá vôi của hàng động, địa hình không khác ở trên, bề mặt sần sùi hơn một chút thôi, riêng mặt đất thì khá bằng phẳng. Công việc đầu tiên, chúng tôi chia nhau ra tìm dấu hiệu của Dũng và Châu, Thùy đi với Tú Linh, tôi đi với Sinh còn Anh Hùng đi với Tùng, tại vì chỉ còn mình anh nói chuyện với gã, mỗi nhóm đi một hướng về phía những vách hang, dưới đây khá rộng. Sinh đi trước, tôi đi sau, được một lúc thì hai thằng thấy dưới đất có một miếng gỗ bị bụi phủ kín, trên đó có khắc những ký tự giống như kinh văn trên cái vô lăng nhưng nét vẽ thô kệch hơn, có lẽ là dùng than chì. Càng đi tới thì thấy thêm nhiều mảnh gỗ nữa, theo linh tính, Sinh rọi đuốc về trước, tôi cũng cố căng mắt ra nhìn theo, khi mắt quen dần thì phát hiện phía trước là một kiến trúc tháp khá cao. Sinh ngoắc tay ra hiệu tiến về phía trước, đến gần mới thấy tòa tháp đổ nát này cao chạm nóc hang, những bức tường nham nhở các lỗ hổng để lộ ra các bậc thang hư hại gần hết. Cỏ mọc xung quanh cao hơn đầu chúng tôi mấy thước, loại cỏ này tôi chưa thấy trên mặt đất bao giờ, lý do chúng có thể mọc ở nơi thiếu ánh sáng như này cũng khó hiểu không kém. Tôi hỏi Sinh là có muốn vào không, nó lia ngọn đuốc qua lại, xem xét tình hình rồi bảo: “Vào xem qua tầng một cái đi, nhỡ mấy người kia vào đây trốn rồi sao?” Tôi gật đầu.
Cửa vào tòa tháp có một đường chỉ gỗ rộng vài centimet, bên trên khắc hình chim thần rất tinh xảo, có thể thấy rõ những cái miệng đầy răng nhọn hoắt của chúng. Kiến trúc tầng một của tháp hình tròn, dưới nền lót ván gõ, ở giữa những kẽ hở cỏ mọc lên, ngọn đuốc của Sinh lia đến đầu thì bóng của cỏ bị hắt xuống đến đó, trông giống hàng chục người đang chạy dọc trên nền gỗ. Bên trong tháp không rộng lắm nên có thể dễ dàng nhận thấy không có dấu hiệu của Dũng và Châu, thất vọng, chúng tôi rủ nhau đi ra thì nghe phía bên kia Thùy đang hét lên: “Mấy anh chị, lại đây coi cái này nè!” Tôi và Sinh tức tốc chạy đến, thấy Tú Linh đang ngồi ngụy gối, sờ vào nền đất, anh Hùng và gã Tùng cũng chạy đến ngay sau đó. Dưới nền đất, chúng tôi bàng hoàng phát hiện ra hai vệt dài, nếu loại bỏ hết mọi khả năng không thể xảy ra thì đây chính là dấu vết kéo lê mà “vật gì đó” đã để lại khi di chuyển cơ thể Dũng và Châu, dấu vết ăn khá sâu vào mặt đất nên không thể nhầm lẫn được. Dường như Thùy cũng hiểu chuyện, cô lấy tay bịt miệng, giấu một tiếng nấc, còn khuôn mặt gã Tùng thì hiện rõ vẻ bàng hoàng. Sinh chậc lưỡi: “Tình hình này chắc hết hy vọng rồi. Hang cao chết mẹ, rớt xuống què dò gãy cẳng là còn hên, rồi nhện và rắn các thứ. Chuyện khó hiểu duy nhất là ai đã lôi hai đứa này đi?”
.
Thùy nghe đến đây thì đã không còn kiềm được sự xúc động, mặc dù tôi nhận xét thấy cô ta mạnh mẽ là có, nhưng sự thật mà Sinh nói ra quá tàn nhẫn, phản ứng này hoàn toàn dễ hiểu. Cô gục đầu vào vai Tú Linh thút thít, đến lúc này thì Tú Linh trợn mắt nhìn Sinh trách mắng, nó trút hơi thở kèm chút giễu cợt rồi cầm chai rượu bỏ ra phía xa. Anh Hùng lên tiếng: “Thôi, mọi người chắc cũng mệt rồi, giờ mình kiếm chỗ dựng trại, nghỉ ngơi lấy sức, theo anh nghĩ giờ này ở trên cũng gần trưa rồi.”
Ánh lửa bập bùng soi sáng khuôn mặt bần thần của Thùy và gã Tùng, mỗi người một miếng lương khô, không ai nói với ai câu gì, Sinh tìm được một gốc cây bị đổ, nó dựa lưng vào đó, nằm bắt chéo chân, vừa ăn vừa uống rượu, nôm không có chút gì hối hận về kết luận của mình. Tú Linh ăn xong thì đứng lên đi về phía Thùy, cô nói sẽ mát-xa trán cho cô bé bớt chút căng thẳng, gã Tùng cũng đòi nhưng Tú Linh bỏ ngoài tai hết trọi. Tôi xin anh Hùng điếu thuốc, kéo vài hơi thấy đầu óc tỉnh táo ra hẳn, lúc này tôi mới hỏi: “Ông lão chết oan vậy, mà lại là lục lâm thứ dữ, em thấy cấn cấn sao á anh?”
Anh bảo: “Đâu phải mình ên mày cấn, như lúc nãy anh có nói, xương sườn lão gãy mấy cái, lực tác động không phải nhỏ. Kiểu này thì chỉ có khả năng là do một tay lục lâm khác cao tay hơn giết mà thôi. Lục lâm đen chẳng hạn? Thằng Sáu Nghĩa với bà mẹ nó thì không phải rồi…”
Tú Linh chen vào: “Theo em thấy, nếu xương mà đen đi như vậy, ông lão thả diều chết cũng khoảng hai mươi, ba mươi năm trước.”
Anh Hùng suy ngẫm một hồi, nhìn anh có vẻ căng thẳng lắm, vài lần anh định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thấy cơ mặt anh chùn lại, anh gục đầu xuống, cánh tay vô thức ném một viên đá vào đống lửa, anh trút tiếng thở dài: “Lúc ở đảo Bia Mộ, bác Ba có nói về chuyến đi vào Ca Lâu Thành với một người mà bác cho là Lý sư phụ mấy chục năm trước. Chẳng lẽ…”
Nghe xong, tôi ngã người về sau một chút, tiếp nhận thông tin mà không khỏi bất ngờ. Nếu bác Ba nói đúng, thì chẳng lẽ người giết ông lão thả diều là hai người bọn họ, vậy thì hợp lý rồi, họ chính xác là “lục lâm thứ dữ”. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, khả năng những lục lâm ám sát lẫn nhau là rất nhỏ, Lý sư phụ và mười người đệ tử của ông tiếng tăm đâu phải nhỏ, họ nổi lên nhờ vào việc bao dung và luôn giúp đỡ kẻ yếu mà. Thêm vào đó, lúc chúng tôi gặp bác Ba, ông đã điên điên khùng khùng, tuy có kính trọng nhưng tôi không nghĩ mấy người này tin vào lời ổng nói. Thật vậy, anh Hùng tuy có nói thế nhưng anh cũng ghim lại một câu: “Giờ khoan hãy kết luận, không đủ cơ sở mà kết luận rồi đâm ra nghi ngờ tiền bối tội họ, tập trung vào chuyện Ca Lâu Thành trước đi.” Đoạn, anh quay sang bảo Thùy: “Em nói em có cuộn da gì đó ghi thông tin về tòa thành này đúng không, giờ lấy ra đi, mình sắp vào đó rồi, biết đâu tìm được thông tin bổ ích!” Thùy gật đầu cái rụp rồi bước đến ba lô móc ra một cuộn da màu nâu cũ kỹ, nó được cột lại bằng sợi dây thừng nhỏ màu đen đã tơi tả gần hết, anh Hùng nói Tú Linh lấy cuộn giấy đọc đi rồi “phổ cập” lại cho cả bọn, Thùy nói là cô có nhờ ông anh nào đó dịch giùm rồi nhưng anh Hùng chỉ cười, làm lơ. Tôi nghĩ đây là dịp tốt để hỏi về thân phận của Thùy nên nói luôn: “Sao em quyết định đi tìm Ca Lâu Thành vậy, nếu viết luận như em nói lúc đầu thì chui vô mấy chỗ nguy hiểm này làm gì cho mệt?”
Thùy cười (chậc, cười gì đẹp dữ), cô nói: “Mới đầu gặp, mọi người không biết từ đâu lù lù bước ra, em cũng phải chừa đường lùi chứ. Giờ mọi người muốn nghe thì em kể, nhưng mà sau đó anh cũng nói cho em biết thật sự mọi người là ai nha?” Tôi và Thùy nhìn anh Hùng, anh gật đầu, cô nói tiếp: “Thật ra là do ông nội em cả…”
Ông nội của Thuỳ tên là Hoàng Quý Châu, gốc gác ở Lái Thiêu, năm 1948 chạy loạn về sống ven kênh Tàu Hủ, giao báo dạo, đánh giày, chạy việc chạp phô hay bán cao đơn hoàn tán việc gì ông cũng kinh qua, mục đích chỉ là bám trụ lại đất Sài Gòn. Lại nói về Sài Gòn thời ấy vẫn chia ra làm Sài Gòn (khu vực trung tâm ngày nay) và Chợ Lớn (Quận 5, 6) nhưng dân Minh Hương không gọi là Chợ Lớn mà gọi là Đề Ngạn, theo tên xưa. Lúc ấy, ông Châu hay chạy vặt cho người Hoa, người lúc nào cũng khua khoắng tay chân, không chịu nghĩ nên người Hoa ở đây đều biết cái danh Lão Hoàng (nghĩa thực ra là Lão Châu Chấu, do ông họ Hoàng, châu chấu tiếng Hán là Hoàng Trùng). Do biết tích cóp nên chẳng bao lâu đã để dành đủ số vốn, Lão Hoàng bắt đầu buôn. Ban đầu chỉ là mua đi bán lại mấy loại thuốc lậu, dần dà đủ vốn rồi thì lụa là gấm vóc cho đến kỳ trân dị bảo đều thấy ông bán đủ cả. Bến của ông lúc nào cũng đậu bốn, năm chiếc ghe chở đủ thứ hàng chờ giao, thời vận phải gọi là cực kỳ tốt. Người ta vẫn nói, dư tiền rồi chẳng biết làm gì, Lão Hoàng khi đứng ở đỉnh cao cũng thế, hễ thứ gì ông thích thì đều không tiếc tiền mua về trưng trong nhà, ban đầu cũng chỉ là ngọc ngà đồ trang sức, kế đó thì đến sừng tê, da hổ trắng, sau này đến cả báu vật lôi từ dưới mộ cổ đào được ở đâu đâu ông cũng đem về, dĩ nhiên là ông thích.
Chợ Lớn ngày ấy chỉ có ba trục đường chính, cắt nhau nhìn như chữ Điền Hán tự, ý nghĩa Chợ Lớn thì hết sức đơn giản: y hệt như cái tên Việt hoá của nó, mua gì cũng có. Trong cái bàn cờ nhỏ ấy, Lão Hoàng đi muốn nát hết cả, thế mà cứ vài ngày ông đều dạo qua khu đồ cổ, xem có gì hay ho thì mua về, cục đá cũng được. Hôm nọ trời vào tháng bảy âm lịch, khu người Hoa lác đác đã có người đốt vàng mã cúng cô hồn đề phòng bị quấy phá, về khuya ít người buôn bán hơn. Lão Hoàng tối đó chỉ định đi ra ngoài dạo chút rồi về, ai ngờ đi thế nào đến khi định tần lại thì đã thấy đặt chân đến khu đồ cổ. Định bụng quay về thì bỗng nhiên có ánh đèn lồng đi gấp vào con hẻm. Quái lạ, Lão Hoàng đi bộ khắp cái Chợ Lớn này ít gì cũng hơn mười năm, làm gì có con hẻm nào ông chưa biết, chỗ này rõ ràng không hề có cái hẻm nào cả thì nay lù lù ở đâu xuất hiện khiến ông không khỏi nghi ngờ. Ghé mắt nhìn vào trong chỉ thấy đó là con hẻm nhỏ, bên trong tối mờ mờ, hắt thứ ánh sáng đỏ do giấy dán cửa sổ ra ngoài. Nghĩ bụng có thể do ông chỉ đi ban ngày qua đây, buổi sáng người ta bày đồ la liệt, che cả đường vào nên ông không biết sự tồn tại của cái hẻm này, dù gì cũng lỡ đi đến đấy rồi thì vào thử xem sao. Nghĩ là làm, Lão Hoàng bước thẳng vào con hẻm mờ mờ, vừa lúc đó ngoài đường chính ùa đến trận gió lạnh ngắt, thổi giấy tiền vàng bạc bay tứ tung.
Con hẻm càng đi vào càng rộng ra, đến một khúc ngoặt thì Lão Hoàng hết sức sửng sốt khi thấy ở đây người ta vẫn mua bán náo nhiệt, đèn đuốc sáng rực. Họ nói với nhau đủ thứ tiếng, trao đổi hết sức ồn ào, sầm uất. Lão Hoàng đi dọc con phố đó, nó cũng chỉ khoảng trăm mét, chủ yếu bày bán đồ ăn uống, vốn dĩ Lão Hoàng đâu quan tâm, lão vẫn quan sát xuôi ngược, xem có ai bán đồ cũ đồ cổ hay ho gì không. Đang định quay trở ra, ông bỗng thấy góc khuất bên kia có một lão già đang nằm bên cạnh một cái chiếu bày đủ đồ đồng la liệt. Tò mò bước sang thì thấy đa phần là đồ thờ cúng, duy chỉ có một tấm da trâu được buộc dây đen, trông hết sức bẩn thỉu. Chính sự cũ kỹ bẩn thỉu đó lại thu hút Lão hoàng rất nhiều, ông mở ra xem, bên trong toàn chữ Hán cổ, dĩ nhiên lão đọc chữ được chữ không, nhưng nội dung thấp thoáng gì đó về một tòa thành cũ thuộc phạm vi trấn Hà Tiên, Rạch Giá. Lão già nằm nãy giờ, thấy có khách đến thì ngồi dậy, khuôn mặt hết sức kỳ quái: không có chân mày, mũi tẹt thấp, da căng bóng, hai mắt híp lại, hơi thở nhẹ như không có, cả người tỏa ra sự lạnh lẽo đáng sợ. Lão Hoàng hỏi về cuộn da, lão già vẫn không tỏ ra chút cảm xúc gì, bảo: “Mua làm gì?”
Lão Hoàng trố mắt ra, nghĩ bụng ai đời có người bán nào lại hỏi thế, bèn nói: “Lão phu thích trưng đồ cổ, vật này có gì đó mỗ mua không đặng hay sao?”
Lão già nói như thở ra từng chữ: “Chỉ sợ nó làm ngươi chết không nhắm mắt thôi!”
Lão Hoàng giận đến tím mặt, để lại một lúc sáu chỉ vàng dằn mặt lão già rồi đùng đùng quay trở ra.
Lúc về, Lão Hoàng bèn tìm người biết chữ, về dịch lại cho lão nghe. Biết được nội dung của tấm da, từ đó về sau Lão Hoàng đổi tính hẳn, không đi mua đồ về trưng nữa, chỉ lục tìm sách cổ, thư tịch, mọi thứ về địa chí vùng Kiên Lương Hà Tiên, rồi các manh mối về một thứ ông chỉ mấp mé khi có ai hỏi: Ca Lâu Thành.
Kể tới đó, giọng Thùy đượm chút buồn, cô nhìn qua cuộn da mà Tú Linh đang cặm cụi đọc rồi nói: “Ông nội em sau đó bị ám ảnh với cuộn da đó, bỏ hết công chuyện làm ăn, tuyển lực điền, thầy phong thủy, rồi vệ sĩ đủ cả, lên đường đi tìm tòa thành Ca Lâu trong truyền thuyết, nhưng lần nào về cũng thất bại, cả đoàn người chết gần hết. Nhưng ông vẫn cứ kiên quyết, ông nói đây là sứ mạng của đời ông, đêm trăng đó, con phố đó, ông lão bán hàng đó. Ông lúc này đã giàu sụ nên có suy nghĩ của người đứng trên đỉnh cao, đâm ra bệnh tưởng, nói là ông Trời sắp đặt cho ông đi vào khu phố đó và giao phó nhiệm vụ tìm Ca Lâu Thành lại cho ông. Em thương ông lắm, lúc ông hấp hối trên giường, ông đuổi hết mọi người ra ngoài rồi nói với em, rằng em là người thông minh, có tố chất nhất dòng họ, ông nắm chặt tay em, truyền cuộn giấy lại cho em rồi bắt em hứa là phải giúp ông hoàn thành sứ mạng, không thôi Ngọc Hoàng không cho ông lên Thiên Đình. Em chịu gật đầu ông mới bỏ tay em ra.”
Tôi nói: “Vậy cho nên em mới quyết định thi vô trường địa chất hả?”
Thùy bảo: “Đúng rồi anh. Nói thật em chưa bao giờ quên lời dặn của ông nội. Sau này em cũng ghiền luôn khảo cổ, thám hiểm. Đi vào đây tưởng chỉ là cái hang thôi có gì đâu, ai ngờ…”
Tôi cố an ủi Thùy: “Em đừng lo, từ giờ về sau, em đi với anh và mấy người này thì yên tâm, không có gì xảy ra nữa đâu.”
Anh Hùng tằng hắng, Sinh cũng thêm vào “ĐI với ANH luôn mới ghê…”, tôi lườm nó mấy cái. Lúc này, anh Hùng mới đốt điếu thuốc, ngồi trò chuyện với Thùy về bọn chúng tôi, nhưng anh vẫn giữ lại rất nhiều thông tin, đặt biệt là thông tin liên quan đến lục lâm, tuy vậy Thùy vẫn ngồi nghe rất chăm chú, lại còn trầm trồ mấy lần. Một lúc sau, Tú Linh đã đọc xong cuộn da liền bảo chúng tôi ngồi tụm lại, cô nói: “Nhìn chất liệu thì khá giống với cuộn da ở đảo Bia Mộ, nhưng em không dám chắc nghe. Cuộn này thì khá chung chung, chỉ thấy ghi lại công đức của Ca Lâu Vương, ca ngợi công lao của ổng ngày xưa trừ yêu phục ma, về của cải, rồi ghi về quân đội của Ca Lâu Thành, hai ngàn thần binh, mình cao hai thước, có cả chuyện Ca Lâu Vương có phép trường sinh. Về mặt sử liệu có vẻ như không đáng tin bằng thông tin của Từ Khoái”
Anh Hùng chậc lưỡi: “Vậy chắc là giai đoạn trước khi ổng hóa điên rồi. Còn gì khác không em?”
“Còn, trong đây có ghi lại thông tin về đường dẫn vào thành chủ, sau khi đã đi qua Bát Quái Động, đọc qua thì nghe như hư cấu, nếu đúng như trong này ghi, mình cách thành chủ khoảng mười tám cây số. Đặt biệt có chi tiết làm em quan tâm, người viết ghi lại rằng mặc dù diện tích tòa thành rất lớn, nhưng đứng ở chỗ nào cũng thấy một “ánh mắt nhìn trừng trừng vào mặt trời đỏ rực”.
Thùy kinh ngạc: “Em đâu nhớ có đoạn đó đâu ta?”
Tú Linh cười chế giễu: “Thông tin quan trọng đó cưng.”
Anh Hùng bảo: “Đúng vậy. Anh không dám nói gở, nhưng mà có khi đó là Ngô Công Kim Thân, còn phát sáng vậy là Thái Dương chắc rồi. Nhưng mà...”
Tôi hỏi: “Nhưng sao anh?”
“Quả thật đó là thông tin tốt, nhưng tất cả những chuyện này bốc mùi kinh khủng, lấy ví dụ cuộn da mà Tú Linh vừa đọc ghi lại giai đoạn trước khi Ca Lâu Vương hóa quỷ thì tại sao nó lại nằm riêng; cuộn da ở đảo Bia Mộ có chỗ bị xé ra, thông tin đằng sau ghi lại sự việc gì, tại sao lại xé nó ra, ai đã xé nó ra; ông lão thả diều là do ai giết, vân vân.”
Tôi nghe anh Hùng tổng hợp lại thông tin cũng nổ đom đóm mắt, quá nhiều câu hỏi, nhưng nghĩ lại thì cũng có chút yên tâm, chứ mọi chuyện dễ dàng quá cũng không làm tình hình khá lên bao nhiêu, thà như lúc này.
Lúc này, anh Hùng mới thông báo là cả đoàn sẽ đi tiếp, tôi đứng dậy vươn vai vài cái, cảm thấy trong lòng phấn chấn lạ thường. Đường đi vẫn bằng phẳng, không có gì để kể. Đi được một chốc, anh Hùng đưa tay ra hiệu cả đoàn dừng lại, tôi biết là sắp có chuyện rồi. Tôi hỏi: “Sao v….”, chưa kịp dứt lời thì anh đưa ngón trỏ lên môi, rồi chỉ vào lỗ tai, ý muốn bảo im lặng lắng nghe thử đi. Tôi nhíu chân mày lại, ngoài tiếng nhỏ nước thì có nghe gì khác đâu? Cả đoàn như muốn nín thở, bỗng tôi nghe được tiếng gì đó thật, rất nhỏ thôi nhưng đúng là ngoài âm thanh nhỏ giọt của nước còn có một âm thanh “rạo rạo” khác vang lên. Anh Hùng định hướng lại rồi dẫn chúng tôi rẽ vào hướng khác, chỗ ánh đuốc chiếu vào có một cái hang đủ hai người chui cùng một lúc, bước qua hang, đoạn đường trong đây trở nên tối hơn hẳn, tiếng “rạo rạo” giờ đã rõ hơn rất nhiều, đi khoảng mười phút, chúng tôi phát hiện một kiến trúc trông giống như tường thành nhưng không cao lắm, chỉ khoảng ba thước, ở giữa có một bậc thang dẫn lên trên. Cảnh tượng phía sau những nấc thang này làm tôi không khỏi choáng ngợp, mờ ảo hiện ra một con đường dài tăm tắp, hai bên đầy sỏi và đặt biệt là con đường này cắt một mặt hồ, hay mặt biển gì đó, không phân biệt được, chỉ thấy sóng đang vỗ từng hồi vào hai bên lề đường, tấp những hòn sỏi lên trên rồi lôi chúng xuống, âm thanh “rạo rạo” ghê rợn là từ đây mà ra. Chúng tôi nhìn nhau, hồ trong núi thì tôi có nghe qua, nhưng hồ kiểu này thì lạ lắm, rõ ràng không khí hoàn toàn lặng gió, không thể nào có sóng được. Chúng tôi theo chân anh Hùng, bước xuống con đường xẻ biển, giờ mới phát hiện những hòn sỏi này có kích cỡ khá to. Đang đi chợt anh khựng lại, anh ngồi xuống xem gì đó, Tú Linh và Sinh cũng nhìn nhau như hiểu rằng có chuyện không ổn, anh với tay nhặt lấy một hòn sỏi rồi chầm chậm quay nó lại, thứ trên tay anh cũng “nhìn” anh, chỉ có cái, hốc mắt nó đen ngòm, là một cái đầu lâu. Tôi bàng hoàng nhìn xuống bờ nước, nghe giọng Tú Linh vang lên bên cạnh: “Biển Oan Hồn…”