Mục lục
Cuộc di cư vĩ đại: Chiến tranh Đế quốc
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Có thể chúng ta sẽ bị bắn nổ tung trong không gian. Nhưng tôi có thể đảm bảo một điều rằng, lũ khốn đó sẽ biết chúng đang ở trong một cuộc chiến, và kẻ sống sót sẽ không dám đối đầu với nhân loại một lần nữa.

Lời tuyên bố của đô đốc Sheila Terbourg với thủy thủ đoàn, trước khi bước vào trận chiến ở tinh vân Cat, lịch đế quốc năm 124.

***

“Cho tới giờ đã có tổng cộng 40 tàu chiến hạng nặng,” trung úy Walter Ngovic thì thầm từ trạm chiến thuật của mình.

“Tôi không nghĩ bọn họ sẽ nghe tiếng chúng ta qua vỏ tàu và lớp chân không,” thuyền trưởng – trung tá Biyce Suttler nháy mắt trả lời sĩ quan của mình, rồi quệt mồ hôi trên gương mặt.

“Xin lỗi, thuyền trường,” chàng sĩ quan cười “Tiếp cận đội hình địch gần thế này khiến tôi muốn giữ im lặng.”

“Chúng ta và Lasharans không ở trong tình trạng chiến tranh,” thuyền trưởng lắc lắc ngón tay nhắc nhở. “Dù tôi chắc bọn họ sẽ không do dự nổ súng nếu biết chúng ta đang ở đây. Cho tới giờ hệ thống vẫn hoạt động đúng theo thông số kĩ thuật.” Thuyền trưởng ghét nhiệm vụ như thế này, dù chiến hạm của anh được thiết kế riêng biệt cho nó. Thà là rình rập tàu buôn, hoặc tìm diệt tàu hộ vệ hơn là lọ mọ do thám hệ sao của địch, trong khi lại không có quyền tự vệ nếu bị tấn công. Và bên trong tàu nóng như chảy mỡ, dù đỡ hơn nhiều so với lớp tàu tấn công tàng hình cũ.

“Thêm hai chiếc vừa rời khỏi siêu không gian,” sĩ quan chiến thuật thông báo.

“Để mắt tới chúng vậy,” thuyền trưởng nói, tiếp tục vuốt gương mặt đẫm mồ hôi: “Đừng để chúng tới gần tầm phát hiện, được chứ?”

Cho dù chúng phải tới gần phạm vi 5 triệu km để có cơ hội dò ra chúng ta, anh nghĩ. Họ đang trong chế độ im lặng, lò phản ứng phụ hoạt động ở mức tối thiểu, chỉ cung cấp đủ năng lượng cho hệ thống hỗ trợ sự sống, cảm biến thụ động và lớp màn tàng hình. À, con tàu có đủ năng lượng được trữ trong ma trận tinh thể để nạp và chạy tất cả hệ thống ở mức độ tối đa, trong khi chờ lò phản ứng chính kích hoạt. Nhưng nếu gặp trường hợp phải phản ứng nhanh như vậy thì họ cũng gần chết rồi.

“Thêm ba chiếc nữa,” sĩ quan chiến thuật xoay đầu lại báo cáo với thuyền trưởng.

“Chờ chúng di chuyển cách xa 50 triệu km, sau đó chúng ta lết khỏi đây.” Suttler ra lệnh cho nữ lái tàu, nghiêng mình ra trước và vỗ vai cô: “Tôi nghĩ chúng ta hết được chào đón rồi, tới lúc đưa thông tin về cho hạm đội khi mà họ còn có thể sử dụng nó.”

Nữ sĩ quan gật đầu ra hiệu hiểu rõ với thuyền trưởng. Anh tựa lưng vào ghế, đọc bản tóm tắt những gì họ tìm được tới bây giờ trên màn hình phụ. Chẳng phải dấu hiệu tốt lành gì khi mà bọn ngoài hành tinh cuồng tín tụ tập một lượng lớn binh lực gần biên giới, hơn 50 tàu chiến hạng nặng trong một hệ sao.

Nhưng giờ chúng ta đã có cách theo dõi lũ khốn, thuyền trưởng mỉm cười với ý nghĩ. Lớp tàu tấn công/tàng hình cũ không tệ, với lớp màn ngụy trang và lớp sơn hấp thụ/phản xạ phóng xạ, cũng như lớp giáp cách điện hiệu quả. Nhưng vấn đề với tàng hình là tuy con tàu có thể vô hình trước cảm biến chủ động và tầm nhìn, nó vẫn phát ra quang phổ điện từ như một ngôi sao, đặc biệt là tia hồng ngoại.

Lớp tàu tàng hình cũ liên tục tạo ra lỗ hổng nối với hạ không gian và trút phần lớn lượng phóng xạ nhiệt vào đó. Vấn đề với hệ thống như vậy là nó cần năng lượng tạo ra từ con tàu để giữ lớp màn mở liên tục, kết hợp với việc sản sinh phóng xạ.Và lỗ nối với hạ không gian tuy không cần phải điều chỉnh như cánh cổng thực thụ, nó vẫn chịu hạn chế bởi mức trường hấp dẫn mà hệ thống có thể chịu được. Do đó con tàu bị giới hạn hoạt động ở rìa hệ sao, xa khỏi những công trình đáng lưu tâm ở bên trong.

HIMS Seastag (số hiệu Stealth/Attack 421) là một trong những tàu tấn công/tàng hình thế hệ mới. Nó sử dụng lỗ sâu được tạo ra bởi trạm không gian Donut để thải lượng phóng xạ mà không cần tốn năng lượng, và không cần phải lo lắng về trường hấp dẫn dày đặc.

Nhưng nó vẫn nóng như lửa, thuyền trưởng nghĩ thầm khi con tàu trôi dạt trong vũ trụ. Hệ thống không và sẽ không bao giờ hoàn hảo, vậy nên chúng ta bị hầm bởi chính mồ hôi của mình.

****

Luôn luôn là cái nóng, Cornelius Walborski nghĩ, khi ngước nhìn quả cầu trắng trên trời, ngôi sao Sestisus lớp F2. Vuốt trán với bộ đồ ướt đẫm mồ hôi, anh mắng con robot trồng cây/thu hoạch chẳng chạy ngon như quảng cáo.

Toàn quảng cáo sai sự thật, anh nghĩ, kéo bảng mạch bị cháy ra ngoài và kiểm tra nó. Nếu mình có nhiều robot hơn thì có thể bán phế liệu con này, nhưng mình đã tới hạn mức ba con rồi.

Vì điều luật của hiệp ước ‘Man in the loop’, không một ai được sở hữu nhiều robot hơn số lượng mà họ có thể giám sát. Nhưng anh có hơn 3000 hecta đất nông nghiệp được khai hóa, chuẩn bị gieo hạt nếu anh có thể chứng minh mảnh đất này sản xuất được, và từ đó công nhận đây là nhà mình.

Walborksi đặt bo mạch vào trong túi bên hông, đi về phía căn nhà tạm mà anh và hôn thê xây dựng. Ngay bên cạnh là nền móng đang thành hình của ngôi nhà kiên cố, con robot xây dựng đang đặt thanh dầm sàn vào chỗ, không lâu sau đó là cột cho tầng tiếp theo. Ít ra thì nó chạy tốt, anh nghĩ, con duy nhất hoạt động trong ba con robot. Sớm thôi họ sẽ có mái nhà che nắng mưa, và chỗ trú cho gia súc, sau đó anh cần trang trại bắt đầu hoạt động.

Thân hình cao 2m của Cornelius bước đi dài, lêu nghêu dưới trọng lực ở mức 0.88G trên hành tinh. Ngày ở đây dài hơn 3 tiếng so với hành tinh quê hương New Detroit, khiến họ cảm thấy mệt mỏi hơn cho dù trọng lực thấp hơn. Tuy nhiên nó cũng thiếu đi 4.5 tỉ dân so với hành tinh trung tâm, chỉ cần chăm chỉ anh có thể làm giàu tại đây, không như ở quê cố lắm chỉ ở mức một người lao động có kĩ năng.

Hai chú chó lao ra đón và nhảy nhót quanh anh, một con thì sủa vang khắp cánh đồng, không lâu sau lại có thêm hai con khác sủa theo. Cornelius mỉm cười nhìn lũ chó săn, tay sờ đầu con gần nhất. Mình muốn nuôi bao nhiêu con cũng được, anh nghĩ, nhìn lũ chó lượn lờ một lúc rồi chạy ra phía xa cánh đồng. Nhưng chúng chẳng thể cày cấy hay thu hoạch, anh phải công nhận điều đó dù cho lũ chó rất hữu dụng khi tuần tra, canh gác và bảo vệ gia súc.

Khi anh nghĩ về lũ chó, một trong số mấy con mèo con nhảy khỏi bụi cây và vồ lấy con côn trùng giữa không trung. Chỉ bằng một cú đập, con côn trùng đã chết và con mèo tự hào tha nó vào bóng râm để tận hưởng bữa ăn. Chúng là những thợ săn giỏi, anh nghĩ về ba con mèo mà anh có được từ hàng xóm. Không như sinh vật ở hành tinh này, chúng có thể tiêu hóa và sinh tồn từ những thứ mà chúng chưa từng ăn, giống như dân di cư. Bionanites (robot phân tử sinh học) giúp cho các sinh vật từ trái đất khả năng chuyển hóa protein và carbon từ động thực vật trên Sestius thành thứ tiêu hóa được. Có thể không ngon lắm, nhưng trong trường hợp của lũ mèo thì nó giúp chúng biến thành thợ săn côn trùng hiệu quả trên hành tinh.

Tiếng động từ công trình thu hút sự chú ý của anh khỏi lũ mèo, anh nhìn về phía căn nhà.

“Anh tìm ra vấn đề chưa,” vợ anh, Katlyn cột mái tóc dài vàng óng lại khi nhìn anh với đôi mắt xanh thẳm. Đây là lí do tại sao mình tới đây, anh nghĩ khi nhìn vẻ đẹp của cô. Vì cô ấy, và gia đình sắp tới.

Cả hai còn quá trẻ, anh 27, cô 28, chỉ vừa qua độ tuổi thành niên. Nhưng chính phủ muốn mở rộng vùng biên, và sẵn sàng hỡ trợ việc định cư cho các gia đình mới trên các hành tinh này.

“Là cái bo mạch bị hư, mà chúng ta không có đồ thay thế,” Cornelius hôn vợ mình rồi nói “Anh sẽ lên mạng xem thử có thể đặt hàng một cái được không.”

“Anh coi qua hàng rào ở phía bắc chưa?” Cô hỏi, đưa anh một khăn lau mồ hôi “Chúng ta không thể để mất thêm gia súc nữa, sẽ là thảm họa nếu mấy con quái Narn lọt vào cánh đồng.”

Cornelius lắc đầu khi nghĩ cảnh con vật 40 tấn dạo bước trên cánh đồng. Chúng là động vật ăn cỏ hiền hòa, tuy không tiêu được thực vật từ trái đất nhưng điều đó chẳng cản chúng ăn hết mọi thứ, hoặc dậm nát hoa màu và máy móc dưới chân chúng.

“Ừ,” anh nói, đưa bo mạch cho cô. “Em lên mạng tìm xem, còn anh sẽ đi sửa cái hàng rào. Có thể ngày mai anh sửa được cái máy cày chết tiệt.”

“Đừng quên là anh có buổi diễn tập của lực lượng dân quân vào ngày mai,” Katlyn lắc đầu nhắc. “Mai là ngày thứ 7 thứ ba trong tháng.”

Chết tiệt, anh nông dân nghĩ, tưởng tượng về buổi huấn luyện dân quân quái quỉ, thứ anh không cần lo lắng khi ở hành tinh trung tâm. Và mình vẫn chưa thể quen với việc sử dụng lịch khác. New Detroit có năm dài hơn nhiều, trong khi Sestius gần với lịch tiêu chuẩn của đế quốc hơn. Dù vậy, ngày tháng ở đây thì dài hơn lịch đế quốc, và nó khiến anh bối rối.

“Nó chẳng hữu dụng gì nếu ai đó vượt qua được lớp phòng thủ trên quỹ đạo.” Anh càu nhàu, thêm một lí do để ghét việc diễn tập “Chúng ta chỉ là những con kiến chờ bị dậm nát.”

“Chờ khi căn cứ hải quân mới tới đây thì anh không cần lo nữa,” vợ anh cười, nhón chân hôn nhẹ vào má anh.

Anh lắc đầu, xoay người đi dọc cánh đồng tới bờ rào bị hư. Một cái giá ở nơi định cư mới là trang trại anh ở mép biên giới, nên dễ bị tấn công bởi động vật hoang dã. Ý nghĩ là một trong 190 ngàn dân di cư, so với hạt bụi giữa 4,5 tỷ dân khiến anh cười lên. Và, anh nhớ, vị công tước mới sẽ nhậm chức vào cuối tuần tới, mọi người sẽ ăn uống thoải mái trong buổi lễ. Cornelius Walborski còn rất trẻ, anh sẵn sàng tận hưởng một buổi tiệc vui vẻ, cho dù phải làm việc miệt mài.

***
“Giờ có một bữa tiệc thì hay biết mấy,” thiếu tá Samule Baggett lẩm bẩm khi đạn cối nổ xung quanh. Mấy ngày đầu tuần trên hành tinh Janaikasa có vẻ thật tĩnh lặng. Đám dân cuồng tín Lasharans với thứ tôn giáo quái đản vẫn nguyền rủa loài người xâm lược thế giới của chúng, trong khi cầu nguyện vị thần của dân tộc mình đưa nền chính trị thần quyền trở lại. Tuy nhiên các vụ xả súng và đánh bom đã giảm đáng kể.

Cho tới lễ mừng thiên niên kỉ của đế quốc, khi hỗn loạn chợt bùng phát trên toàn bộ 12 hành tinh bị nhân loại chiếm đóng sau cuộc chiến tranh Lasharan lần cuối. Các hầm vũ khí bí mật được phân phát, bom được đặt khắp nơi. Vào buổi sáng này, đơn vị của anh – đội A (gồm 2 đại đội B và C ) của tiểu đoàn bộ binh nhẹ 789th (sư đoàn bộ binh 988th) được lệnh giải vây cho tiểu đoàn bộ binh nhẹ khác bị mắc kẹt.

“Thật sự họ nên điều bộ binh nặng vào, thưa sếp,” thiếu úy Kreiger nói – đội trưởng trung đội hỏa lực thuộc phần còn lại của tiểu đoàn do thiếu tá Baggett chỉ huy (vì anh là phó chỉ huy tiểu đoàn). Trong khi trung tá Lefaye, chỉ huy tiểu đoàn dẫn ba đại đội còn lại tấn công theo hướng khác.

“Bộ binh nặng và lực lượng thiết giáp đều đang chiến đấu quanh thủ đô,” Baggett giải thích, thò đầu nhìn qua bức tường. Hệ thống kính quan sát trên mũ anh xuyên qua màn khói, phóng đại hình ảnh của phản quân Lasharans (cao 3m, da có vảy, hình dáng như con người) núp sau công sự. Một tiếng keng vang lên khi đầu đạn văng khỏi mũ anh.

“Coi chừng, sếp,” một trung sĩ vừa nhắc vừa bắn trả một loạt đạn siêu tốc về phía địch. “Chúng có trong tay một số vũ khí hiện đại, bên ta chịu thương vong dù cho có giáp bảo vệ.

“Bộ binh nặng có thể chống chọi được,” thiếu úy nhún vai. “Ít ra thì họ cũng nên gửi giáp hạng trung cho mình, nếu muốn chúng ta tác chiến trong môi trường đô thị này. Nhưng bộ binh nặng chắc chắn có thể giải quyết được vụ này.”

Quả là họ có thể, thiếu tá nghĩ, hiểm hiểm nhìn chàng lính trẻ. Có thể mình nên thử xem có thể yêu cầu được trọng giáp hay không. Bộ giáp hiện tại có thể chịu được một phần hỏa lực nhẹ, tăng sức mạnh của họ lên gấp hai, cũng như bảo vệ người dùng khỏi hiểm họa sinh hóa hoặc vũ khí hạt nhân. Bộ binh hạng trung thì chịu đòn tốt hơn, mạnh hơn. Nhưng bộ binh hạng nặng mới đúng là quái vật, có sức phòng vệ khỏi mọi vũ khí bộ binh (trừ thứ mạnh nhất) và có sức phá hoại ngang bằng tiểu đội bộ binh thường.

“Đạn cối rất khó bắn trúng kẻ địch,” thiếu úy nói, chỉ về cột khói từ các tòa nhà. “Các công trình quá kiên cố so với vũ khí bộ binh, có lẽ vài đạn tên lửa siêu tốc có thể phá được công sự.”

“Tôi không hi sinh thêm người lính nào nữa chỉ để giết vài tên địch,” thiếu tá nói. “Anh xem có thể gọi được hỏa lực mạnh nào lên đó không.”

Một loạt đạn từ súng bộ binh sượt qua đầu, theo sau là tiếng hò hét từ bọn cuồng tín cố hết sức để tiêu diệt binh lính đế quốc. Binh sĩ bắn trả, kèm theo là vài tiếng la hoặc rên rỉ của kẻ địch khi trúng tia hạt. Một binh sĩ gần đó chửi thề khi bị trúng đạn, mất một ngón tay, găng tay thấm đẫm máu. Tuy nhiên bản năng vẫn giúp anh bình tĩnh quăng súng, lấy tay còn lại kẹp cầm máu.

Rồi sẽ mọc lại thôi, thiếu tá nghĩ, liếc nhìn sĩ quan vũ khí.

“Được rồi,” sĩ quan nói, “ngay khi họ vào vị trí bắn.”

“Anh gọi được gì?” Thiếu tá hỏi, ngay sau đó đám mây bị mở ra bởi nhiềucột sáng lao thẳng xuống mặt đất. Mặt đất chấn động, thành phố trước mặt họ rực sáng với màu trắng, gạch đá bắn tung lên không.

“Tuần dương nặng Jakarta”, sĩ quan vũ khí cười. “Ở quỹ đạo thấp, mất một lúc để họ tăng tốc vào vị trí cho một loạt pháo.”

Lẽ ra mình nên vào hải quân mới phải, thiếu ta nghĩ, giữ thấp đầu và bò tới vị trí kẻ địch, hi vọng là đã bị tiêu diệt.

Một phi đội máy bay cường kích gào thét tới, khi đất đá bắt đầu rơi xuống đất. Chúng phóng hàng loạt rocket và xả đạn vào vị trí công sự đổ nát, sau đó lướt qua và ném bom nhiệt áp trước khi kéo cao về độ cao ban đầu, tiếp tục giám sát chiến trường.

“Anh đúng là biết cách đó, thiếu úy.” Thiếu tá khen anh sĩ quan đang vui vẻ cười. “Tôi nghĩ anh sẽ tiến xa trên con đường binh nghiệp, nếu anh sống sót qua cái mớ hỗn độn này.”

***

Ánh đèn yếu đi một lúc, rồi mạnh trở lại khi năng lượng truyền vào các hệ thống dự phòng, nhằm giữ sự thoải mái trên tàu khách.

Bác sĩ Jennifer Conway ước gì cơ thể cô cũng hồi phục nhanh như chiếc tàu khách này. Ngược lại, cô phải giam mình trong toilet của phòng cô, nôn hết mọi thứ cô đã ăn hôm qua ra ngoài. Tất cả sẽ được đưa vào hệ thống tái chế trên tàu, nơi nanites phân hủy chúng thành các chất sử dụng được. Ý nghi này khiến cô buồn nôn lần nữa, và dạ dày cô co bóp, đẩy phần chất lỏng cuối cùng ra ngoài.

Tại sao mình lại phản ứng như thế này? Vị bác sĩ nghĩ, cố đứng dậy và tựa lưng vào bồn nước, tát nước lạnh lên mặt mình. Tại sao lại là mình, mà không phải kẻ khác đáng phải bị hơn, như tên hôn phu chết tiệt.

Nhưng không, đại úy Glen Mckinnon của lực lượng thủy quân lục chiến hoàng gia có thể chất mà những người hay di chuyển giữa các vì sao nên có. Anh chỉ chịu cảm giác choáng váng vài giây (mà đa phần mọi người đều bị) khi tàu nhảy vào/ra siêu không gian. Jennifer thuộc nhóm thiểu số 0.001%, những người phản ứng dữ dội khi chuyển chiều không gian, và không có loại thuốc hay điều kiện nào giúp được.

Và mình có cảm giác như dân du mục bất cứ khi nào bạn trai mình nhận nhiệm vụ mới. Đã bao lâu rồi? Ba lần trong bốn năm qua. Lần này, anh đa hứa với cô rằng mình sẽ ở yên trong ít nhất 5 năm, có thể 10 năm. Suy nghĩ được ở trong vòng tay anh lần nữa khiến cô nở nụ cười, mặc cho cơn nôn nao đang dịu đi. Ít nhất thì anh ấy không ở trên chiến hạm, như đa số thủy quân lục chiến hay như lần đóng quân trước.

Sau một viên thuốc chống nôn, cô cảm thấy đỡ hơn, đủ để tìm gì đó lấp bụng thay cho dạ dày rỗng. Cô coi giờ và thấy chỉ còn 1 tiếng nữa là tới bữa tối, cô được giữ ghế vĩnh viễn ở bàn ăn thuyền trưởng vì địa vị xã hội của mình. Bác sĩ không hiếm tới vậy ở các hành tinh giáp biên, nhưng nhu cầu thì rất cao. Ở các hành tinh trung tâm và phát triển, họ không có ích nhiều trừ khi có dịch bệnh bất thường. Còn ở hành tinh giáp biên thì thảm họa/dịch bệnh thường xảy ra, bác sĩ là rất cần thiết.

Nửa giờ sau, Conway xuất hiện ở bàn ăn thuyền trưởng cùng với các hành khách khác và kĩ sư trưởng của tàu. Thuyền trưởng không có mặt, điều khiến cô ngạc nhiên, dường như vị thuyền trưởng mập lùn chưa từng bỏ lỡ bữa ăn nào.

“Mọi người đều khỏe khi chuyển chiều không gian chứ?” Kĩ sư trưởng hỏi thăm. Trung tá Scott có biệt danh là Scotty, như mọi thế hệ kĩ sư người Scottish mà Jennifer từng đọc qua.

“Tôi thì khỏe, như mọi khi,” Dermet Tagalag trả lời, người Jennifer biết là quan chức đế quốc nhằm quản lý hành tinh Sestius. “Vợ tôi thì hơi khó chịu, mà cô ấy lúc nào cũng vậy.”

Và ông bỏ cô ấy ở lại trong phòng một mình, trong khi bản thân chường mặt ra đây, Jennifer nghĩ, cố kiềm cảm xúc không hiện lên gương mặt.

“Còn cô thì sao, ma’am?” Kĩ sư hỏi với giọng điệu cho cô biết, ông ta đang hỏi lần thứ hai.

“À,” Cô nói, đặt ly rượu xuống bàn. “Vẫn như trước, nôn nao dữ dội, dạ dày khó chịu. Điều tôi sợ đối mặt.”

“Và cô sẽ ở đó trong bao lâu?” Tagalag hỏi, đôi mắt đen nhìn thẳng vào cô với thái độ của người đàn ông đang tìm kiếm nhân tình.

“Hôn phu của tôi dự kiến sẽ ở đó trong năm năm,” cô nói, từ chối đáp lại thái độ của ông ta. “Nên ít nhất cũng dài như vậy.”

“Vậy cô không cần phải lo về triệu chứng này trong thời gian đó,” Scotty gật đầu nói.

“Có thể họ sẽ tìm ra phương thuốc nào đó vào lúc ấy,” Tagalag cười.

“Họ đã cố giải quyết nó trong hơn 900 năm qua”, Jennifer xụ mặt “Tôi không mong là họ tìm ra giải pháp trong năm năm tới.”

“Họ,” Tagalag nói, với giọng điệu chuyển tải rằng ông biết cô nói đến ai, và xem thường những người đó: “chẳng hiểu cái quái gì, thứ cho tôi thô tục.”

“Nói vậy có vẻ hơi nặng nề,” Jackie Smythe, kĩ sư mỏ địa chất nói. Ở bữa ăn trước, Jennifer biết được cô ấy đang tìm kiếm mỏ tài nguyên phóng xạ ở vùng hoang dã. “Nói cho cùng, dường như không có cách nào để tìm ra nguyên nhân gây ra sự mẫn cảm này. Phải không, bác sĩ Conway?”

“Hoàn toàn chính xác, tiến sĩ Smythe,” Jennifer cười. “Dường như không có bộ phận gen, hay đặc điểm nào liên quan tới căn bệnh. Căn bản thì các loại thuốc thử nghiệm đều được tiến hành một cách ngẫu nhiên, vô ích.”

“À được rồi,” Tagalag nói với giọng điệu mà Jennifer không ưa. Người từng nói quan chức chính phủ đứng ở vị trí cao hơn so với các học giả. Ông nhìn về phía kĩ sư. “Còn bao lâu nữa chúng ta tới quỹ đạo? Riêng tôi thì rất mong được đặt chân lên mặt đất.”

“Nhanh nhất thì cũng năm ngày nữa,” kĩ sư cười. “Hai ngày rưỡi để gia tốc, cùng thời gian để giảm tốc.”

“Và các anh không thể chạy nhanh hơn được sao?” Vị quan chức than vãn.

“Tôi e là không,” kĩ sư nói. “The Queen of the Rings không phải là chiến hạm hay tàu truyền tin. 200G là tốc độ cao nhất mà chúng tôi đạt được.”

“Có thể tệ hơn,” Smythe cười xen. “Ít ra thì con tàu đạt Hyper VI, chúng ta có thể mất thêm một tháng tới đây với Hyper V.”

“Hơn hai tháng,” kĩ sư nói, sau khi nhấp một ngụm rượu. Anh đặt lý rượu xuống bàn, nghiêng người về phía cô kĩ sư mỏ. “Cô từng di chuyển trong hyper V?”

“Khi tôi còn trẻ,” nữ kĩ sư trông còn rất trẻ nói. “Tôi từng thăm dò ở vùng 12, và các khu giáp biên khác. Đa số tàu chúng tôi sử dụng đều Hyper V. Ở trong đó cứ như mãi mãi vậy.”

“Tôi lại nghĩ thật xấu hổ khi tốn quá nhiều thời gian di chuyển trong hệ mặt trời,” Tagalag than phiền. “Họ nên làm gì đó đi.”

Nếu họ nghĩ rằng có thể thay đổi được định luật vật lý, Jennifer nghĩ, nhăn mặt khi nhìn về phía ông ta, hi vọng cô sẽ không phải gặp ông ta thường xuyên trên hành tinh. Với hơn 150 ngàn người, xác suất chạm mặt ông ta là bao nhiêu? Cô làm phép tính nhẩm và chẳng thích câu trả lời chút nào. Xác suất quá cao.

“À, thức ăn tới rồi.” Tagalag nói.

Các món ăn đặc quyền của bàn thuyền trưởng được đặt trên đĩa, đậy kín bằng nắp. Jennifer mỉm cười với bồi bàn, khi anh đặt đĩa xuống trước mặt cô, tự hỏi không biết 600 hành khách ở khoang hạng 2, hạng 3 đang ăn gì ở căn-tin dọc con tàu 100 ngàn tấn. Bồi bàn nâng nắp đậy, để lộ món bò hầm sốt đuôi tôm hùm, kèm theo rau tươi và khoai tây hầm. Đây là mình nên được, cô nghĩ, bỏ qua những hành khách khác vốn không phải chịu hành hạ như mình ra khỏi tâm trí. Mình sẽ gặp anh ấy trong năm ngày nữa, và mọi thứ đều tốt đẹp.

“Không lo lắng gì khi đi xa thế này sao?” Smythe hỏi sau khi họ bắt đầu dùng bữa.

“Ý cô là khu này ư?” Jennifer hỏi lại, nhìn vào miếng bò hầm. “Không hẳn.”

“Không sợ kẻ thù truyền kiếp có thể xuất hiện trước cửa?” Cô kĩ sư mỏ hỏi tiếp.

“Không phải cô đang nói đến ông ba bị trong câu truyện kể ngày xưa đó chứ?” Tagalag rên rỉ. “Thân ái, nền văn minh đó đã sụp đồ lâu rồi.”

“Vậy những tàu thăm dò được gửi về hướng này thì sao?” Smythe hỏi vặn, hơi cao giọng. “Trong 500 năm, không một thứ gì được gửi quá biên giới New Moscow từng truyền tin hay trở về. Thậm chí New Moscow cũng không tuần tra quá biên giới 100 năm ánh sáng ngoài lãnh thổ.”

“Vũ trụ vẫn là nơi nguy hiểm ở ngoài biên giới nền văn minh.” Tagalag nói với giọng kẻ cả “Đó là tại sao tốt hơn hết nên ở yên trong đế quốc.”

“Hôn phu của tôi nghĩ Ca’cadasans là thật, và vẫn còn hiện diện ở ngoài đó.” Jennifer nói, gật đầu đồng ý với Smythe. “Nhưng như anh ấy nói, chúng ta đã phát triển. và có thể chúng nhận ra tốt hơn hết là để chúng ta yên.”

“Triết lý hay đó,” Smythe nói, tay cắt miếng bò hầm. “Tuy tôi không tin nó, nhưng vẫn hay.”

“Vậy tại sao cô lại tới đây khi mà quá lo sợ về cơn ác mộng kẻ thù xuất hiện từ bóng đêm?” Tagalag hỏi.

“Tiền,” Smythe trả lời, do dự một lúc với miếng bò hầm trên nĩa. “Tôi muốn nghỉ hưu ở một nơi tuyệt vời nào đó, công việc này trả công cao. Tốt hơn so với các khu khác, trừ khu biên giới giáp Lasharan.”

“Vậy tại sao khu này lại trả lương cao tới vậy?” Jennifer hỏi, vươn tay cầm ly rượu, luôn được bồi bàn rót đầy.

“Không biết nữa,” Smythe nói sau khi nuốt miếng bò hầm. “Cô biết thì nói tôi với, nhưng người ta trả cao là có lý của nó cả, kinh nghiệm của tôi chứng minh điều đó.”

Phần còn lại của hành trình rất nhàm chán, như mọi khi. Di chuyển liên hành tinh đã tiến bộ rất nhiều, khó có chỗ cho thử thách hoặc kích thích. Hoặc là con đường được sắp xếp rất tốt, hoặc các vật thể được phát hiện từ xa, đủ thời gian để tránh né. Vẫn có mối họa từ hải tặc ở một số vùng, nhưng không phải trong lãnh thổ đế quốc, nơi hải quân liên tục tuần tra.

Vào ngày cuối cùng, Jennifer đứng trên boong quan sát khi tàu tiến vào quỹ đạo. Hành tinh bên dưới là một viên ngọc màu xanh trắng, một hành tinh đầy sức sống mà con người đang chinh phục. Cô đã đọc về sinh vật bản địa, các loài động vật có vú khổng lồ thống trị, như sự kết hợp giữa khủng long và động vật ở kỷ Pleistocene. Hẳn chúng phải xui xẻo lắm khi gặp chúng ta và muốn chiếm lấy hành tinh này, cô nghĩ, sau đó xua tan nó. Luật lệ được định ra để bảo vệ sự sống hoang dã trên bất kì hành tinh nào, 15% diện tích sẽ được gìn giữ cho các loài bản địa, 15% khác được làm khu bảo tồn vĩnh viễn. Trừ phi con người tìm thấy thứ gì đáng giá hơn sự sống của loài bản địa, thì họ sẽ chiếm lấy nó bằng mọi giá.

Cô biết các tàu khác trong quỹ đạo thông qua kết nối với máy tính tàu Queen of the Rings. Có hơn 20 tàu, từ một vài tàu cứu hộ nhỏ cho tới một tàu chở hàng siêu trọng, 30 triệu tấn hành khách và hàng hóa. Cô không nhìn thấy hết chúng từ boong này, chỉ ánh đèn nhấp nháy từ vài tàu và hình ảnh đại diện tàu trên quỹ đạo được máy tính trình chiếu. Sau đó cô chú ý tới thứ gì đó gần hơn, và yêu cầu máy tính xác minh. Cô mở mục hình ảnh trong trung tâm quang học, và nhìn cận cảnh chiếc thiết giáp hạm nặng 15 triệu tấn, một trong những con quái vật của hạm đội. Cô tự hỏi một lúc không biết nó đang làm gì ở đây, nhưng hiểu không nên tò mò quá nhiều. Có lẽ là tạm dừng giữa chuyến tuần tra, cô nghĩ.

“Chúng ta đã cập trạm không gian chính của Sestius,” giọng nói phát ra từ hệ thống loa nội bộ, cùng lúc với thông báo tới implant của cô. “Tất cả hành khách chuẩn bị rời tàu trong trật tự.”

Không lâu nữa, cô nghĩ, bước ra boong tàu và đi về phòng mình. Cô đã thu xếp hành lý và sẵn sàng, hầu hết chúng đều ở kho hành lý để tiện vận chuyển. Cô chỉ cần lấy túi đồ cá nhân, và cánh cửa tới cuộc sống mới đã mở ra.

***

Đại úy Glen McKinnon, thủy quân lục chiến đế quốc, đứng cạnh cửa sổ và nhìn tàu con thoi chở tình yêu và sức sống của anh hạ cánh. Nó là tàu con thoi hạng nhất, được gắn liền với bộ nén, có thể lơ lửng và đáp nhẹ nhàng xuống đường băng. Các tàu con thoi khác phải đáp trên đường băng dài, chúng sử dụng động cơ nhiệt hạch khiến hành khách phải chịu rung lắc, có thể cả bầm dập. Những tàu con thoi vậy gần như không còn thấy ở các hệ sao trung tâm. Chính những vùng giáp biên như thế này góp phần kéo dài thời gian phục vụ của cỗ máy lạc hậu hơn, nơi chúng vẫn còn hữu dụng.

Tàu con thoi hạng nhất ngừng hẳn, khi đoàn tiếp viên rời tàu thì mới cảm giác được kích cỡ của nó. Tàu con thoi dài hơn 40m, hơn 100 hành khách trật tự bước ra khi cửa cabin mở. Trong khi đó robot dưới sự điều khiển của nhân viên mặt đất, mở cửa kho hàng hóa và bắt đầu chuyển đồ xuống.

“Sếp này,” người thượng sĩ đi cùng anh như tài xế hôm nay giục, “Đừng đứng đực ra đó, chạy ra đó đón cô ấy đi.”

McKinnon cau có nhìn thượng sĩ một lúc, nhưng chỉ nhận được ánh mắt ngây thơ. “Tất nhiên là anh có lý, tên khốn bất tuân thượng lệnh.” Anh nói với thượng sĩ Hogan, người có cấp bậc quá cao để làm tài xế cho một đại úy nhỏ nhoi. Mà đại tá đã cho anh được nghỉ phép một tuần, cho dù tiểu đoàn đang rất bận rộn, vì anh đã cách xa tình yêu của mình khá dài rồi. Jennifer đã không thể đi cùng tàu vận tải chuyên chở đơn vị, nên phải theo sau. Đại tá nói với sĩ quan cấp dưới rằng anh sẽ không làm gì được cho tới khi cô ấy dọn tới ổn định, vậy nên mới có chiếc xe bay và tài xế là hạ sĩ quan.

“Tôi sẽ sắp hành lí của cô ấy lên xe,” thượng sĩ hô từ sau lưng Glen.

Mà chàng sĩ quan thì đang vội chạy lên thang, không mảy may để ý tới vấn đề nhỏ đó.

Nhân viên an ninh vẫy tay cho phép chàng sĩ quan qua cửa, và Glen nghĩ đó chắc chắn là do bộ quân phục. Hành khách bắt đầu di chuyển tới nhà ga, chỉ vài tháng nữa đường nối sẽ làm xong, khi đó hành khách có thể di chuyển thoải mái tới phòng chờ với máy điều hòa không khí. Dù cho con người đa hiện diện trên hành tinh này hơn chục năm, nhưng nó vẫn là hành tinh giáp biên, thỉnh thoảng việc cải thiện được tiến hành rất chậm, ít nhất là mặt dân sự. Khu vực này được chi viện rất mất cân đối, và anh không chắc mình tin vào lời giải thích từ chính phủ.

Và sau đó ánh nhìn và suy nghĩ của anh chỉ còn tập trung vào hình ảnh trước mắt. Anh gặp Jennifer vào 10 năm trước, khi cô là bác sĩ dân sự ở căn cứ hải quân. Đó là tình yêu sét đánh, ít nhất là với anh. Cô thì phải một thời gian mới chịu đồng mối quan hệ với sỹ quan lính thủy đánh bộ, nhưng việc cô chịu theo anh ở nhiệm vụ này chứng minh lời cam kết của cô ấy.

“Jennifer,” anh la lớn, giang hai tay đón nhận hình bóng xinh đẹp đang chạy tới với mái tóc đỏ, đôi mắt xanh. Người vượt trội anh ở mọi thứ trừ sức mạnh vât lý. Cô đặt hành lý xuống trước khi choàng tay ôm lấy thân hình cơ bắp của anh. Sau đó đôi môi họ chạm vào nhau, tới đây thì họ chỉ đơn thuần là một đôi tình nhân gặp lại.

“Hai người đi tiếp đi,” một nữ nhân viên an ninh đứng gần đó mỉm cười nhắc.

Glen gật đầu, cầm lấy hành lý của Jennifer và đưa tay cho cô.

“Ở đây nóng quá đi,” cô nói, kéo tay áo chùi mồ hôi trên trán.

“Sao bậc F2,” Glen giải thích, nhìn lên mặt trời sáng trắng trên trời. “Trọng lực cũng cao hơn mức mà em quen thuộc.”

“Trên tàu họ cũng chạy ở mức trọng lực này mà,” Jennifer cười. “Em gần như quen rồi.”

“À, anh lấy được phòng ở khá tốt gần trại lính, chỉ cách bệnh viện sáu khu nhà.”

“Cơ sở hạ tầng ở đây thế nào?” Jennifer hỏi, nhìn về phía nhà ga được xây dựng vào lúc mới thuộc địa hóa.

“Khá tốt đối với một hành tinh thuộc địa,” Glen nói, dẫn đường đi về phía nhà ga. “Tất nhiên vì đây là thủ đô nên tốt hơn các vùng nông thôn khác.”

“Đó là nơi mà em sẽ dành phần lớn thời gian làm việc,” Jennifer cau mày.

“Em vẫn muốn làm một bác sĩ lưu động?” Glen hỏi, ngừng lại một lúc và cúi xuống nhìn cô.

“Đó là nơi người ta cần em,” cô gật đầu đáp. “Và đó là nơi mà em đăng ký, nhưng đừng lo, em biết tự chăm sóc bản thân.”

“Vậy chúng ta cần phải chắc em chuẩn bị đầy đủ hơn nữa,” Glen cười. “Anh có một số trang bị mà anh muốn em học cách sử dụng, trước khi anh để em bay nhảy ra đó.”

“Rõ thưa sếp,” Jennifer bật cười, đưa tay chào.

Tiếng còi khiến hai người xoay lại, và Glen cười khi thấy bầy động vật ăn cỏ nặng 40 tấn đang được dẫn đi dọc đường băng tới một tàu con thoi lớn. Những con vật này, anh biết đã được tiêm thuốc an thần, vẫn đang căng thẳng nhìn xung quanh và anh hy vọng người mua đã sẵn sàng cho mọi tình huống.

“Đó là con gì vậy?”

“Một trong những thứ mà em phải coi chừng khi ở ngoài đó,” Glen trả lời, chỉ về phía bầy thú như thể anh ra lệnh cho chúng xuất hiện. “Có những loài ăn thịt săn lùng chúng, kể cả em nữa dù em chẳng đủ cho nó nhét kẽ răng.”

“Người ta dẫn chúng đi đâu vậy?” Jennifer hỏi, mắt nhìn bầy động vật có vú to như khủng long với vẻ thán phục khi chúng đi tới tàu con thoi.

“Sở thú ở nơi nào đó,” chàng sĩ quan đáp. “Có khi là tận thủ đô.”

“Hi vọng có ngày em được xem chúng trong sở thú,” Jennifer ao ước, tưởng tượng thủ đô khổng lồ của đế quốc.

“Ừ, khi nào có mình được rảnh cả một thập niên thì có thể đi hết sở thú ở đế quốc,” Glen bật cười. Anh chỉ về phía xe bay đang đáp xuống đường băng trước mặt hai người. “Chuyến xe của mình đây rồi, xin thứ lỗi cho tên ngốc tài xế đó.” Anh nói tiếp khi thượng sĩ bước ra khỏi xe. “Anh ta rất tỉ mỉ, đó là lí do duy nhất mà anh ta không phải binh nhì.”

“Tôi cũng quý anh nữa, sếp.” Thượng sĩ cười, bắt tay Jennifer. “Rất hân hạnh được gặp quý phu nhân của đại úy, ma’am. Hy vọng anh ta xứng với chuyến hành trình.”

Jennifer mỉm cười nhìn Glen: “Oh, tôi chắc là anh ta xứng đáng, thượng sĩ,” Cố vừa cười vừa nói: “Nếu không thì sẽ có rắc rối to.”

Glen cười lại khi anh đưa tay mời cô vào xe, biết cô đang nói sự thật. Và biết rằng anh sẽ làm mọi thứ để cô được hạnh phúc ở đây, hoặc bất cứ nơi nào mà họ tới.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website MeTruyenVip.com
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK